03 tháng 9 2012

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ
I. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT THUẾ
1.1. Nguồn gốc của thuế 
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước. Để duy trì sự tồn tại của mình, nhà nước cần có những nguồn tài chính để chi tiêu, trước hết là chi cho việc duy trì và củng cố bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương, thuộc phạm vi lãnh thổ mà nhà nước đó đang cai quản; chi cho các công việc ban đầu thuộc chức năng của nhà nước như: quốc phòng, an ninh, chi cho xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng; chi cho các vấn đề về phúc lợi công cộng, về sự nghiệp, về xã hội trước mắt và lâu dài.
Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu chung, nhà nước thường sử dụng ba hình thức động viên đó là: quyên góp của dân, vay của dân và dùng quyền lực nhà nước bắt buộc dân phải đóng góp. Trong đó, hình thức quyên góp tiền và tài sản của dân và hình thức vay của dân là những hình thức tự nguyện, không mang tính ổn định và lâu dài, thường được nhà nước sử dụng có giới hạn trong một số trường hợp đặc biệt, để bổ sung cho những nhiệm vụ chi đột xuất hoặc cấp bách. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, nhà nước dùng quyền lực buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho ngân sách nhà nước. Đây là hình thức cơ bản nhất để huy động tập trung nguồn tài chính cho đất nước.
Hình thức nhà nước dùng quyền lực buộc dân đóng góp để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình - chính là thuế.
Về quan hệ giữa nhà nước và thuế, Mác đã viết: "Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay sản vật mà người dân phải đóng góp để dùng vào mọi việc chi tiêu của nhà nước". Ăng ghen cũng đã viết: "Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có sự đóng góp của công dân cho nhà nước, đó là thuế".
Thuế luôn gắn chặt với sự hình thành và tồn tại của hệ thống nhà nước, đồng thời thuế cũng phát triển cùng với sự phát triển của hệ thống nhà nước.  
Thuế xuất hiện từ khá lâu, từ lúc nhà nước bắt đầu xuất hiện, tuy nhiên khoa học về thuế chỉ ra đời vào cuối thời kỳ phong kiến, đầu thời kỳ chủ nghĩa tư bản. Các lý thuyết về thuế được xây dựng trên các học thuyết kinh tế dựa trên cơ sở một nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, tùy theo mức độ thị trường hoá các quan hệ kinh tế  đặc thù của mỗi quốc gia, mà các chính phủ vận dụng các lý thuyết vào hệ thống chính sách thuế của mình một cách thích hợp. Việc suy tôn học thuyết này hay học thuyết khác chỉ mang tính lịch sử, không mang tính đối kháng và điều quan trọng nhất cho các nhà hoạch định chính sách thuế các quốc gia là tìm ra những ứng dụng hiệu quả nhất, để thực hiện tốt các chức năng và nhiệm vụ của thuế trong cơ chế thị trường mà không quá chú trọng vào trường phái lý thuyết nhất định.  
1.2. Bản chất của thuế 
Thuế luôn luôn gắn chặt với sự ra đời và phát triển của Nhà nước. Bản chất của Nhà nước quy định bản chất của thuế. Về mặt lý luận, bản chất của nhà nước vốn mang tính giai cấp. Không có một nhà nước phi giai cấp mà chỉ có nhà nước của giai cấp nào mà thôi. Vì vậy, suy cho cùng bản chất thuế cũng mang tính giai cấp. Có thể hiểu được điều này, thông qua nội dung cuộc nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại biểu nhân dân địa phương tại Thanh Hoá, ngày 13-6-1957, như sau:
“…Trước kia phải nộp thuế, nay dân chủ cũng phải nộp thuế. Trước ta nộp thuế là nộp cho Tây, chúng lấy mồ hôi nước mắt của nhân dân ta mà làm giàu cho chúng nó, để xây dựng bộ máy áp bức bóc lột đồng bào ta. Nhưng nay ta đóng thuế là để làm lợi cho ta.

Tóm lại, muốn xây dựng nước nhà, Chính phủ phải có tiền, tiền đó do đồng bào góp lại. Trước hết là đồng bào nông dân đông nhất, rồi đến công thương. Nếu không có tiền thì Chính phủ không xây dựng được. Vì vậy, đồng bào phải giúp Chính phủ, nghĩa là đồng bào phải nộp thuế”
- Trong chế độ phong kiến, hệ thống thuế khoá nhằm huy động sự đóng góp tiền bạc của dân chúng để nuôi dưỡng quân đội, tổ chức bộ máy công quyền, quan lại để cai trị trong cả nước. Người dân được hưởng rất ít các phúc lợi công cộng từ phía nhà nước.
- Đến khi giai cấp tư sản nắm được chính quyền, giai đoạn đầu họ chủ trương xây nhà nước tự do, không can thiệp vào hoạt động kinh tế của các lực lượng kinh tế thị trường. Nhà nước chỉ đảm nhận nhiệm vụ giữ gìn an ninh, quốc phòng. Thuế khóa chỉ đóng vai trò huy động nguồn lực tài chính tối thiểu để nuôi sống bộ máy nhà nước và đáp ứng nhu cầu chi tiêu công cộng khác. Nhưng khi bước vào những năm  29- 33 của thế kỷ XX, nền kinh tế của các nước tư bản lâm vào khủng hoảng. Để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, nhà nước tư sản phải can thiệp vào hoạt động kinh tế bằng cách lập ra các chương trình đầu tư lớn và thực hiện tái phân phối thu nhập xã hội thông qua các công cụ tài chính. Trong số các công cụ trên thì thuế là công cụ quan trọng và sắc bén để nhà nước thực hiện điều chỉnh nền kinh tế.
- Hệ số huy động thuế
Mặc dù, thuế được coi là công cụ chủ yếu để huy động tập trung nguồn lực tài chính cho nhà nước, nhưng không có nghĩa là nhà nước có thể quy định mức động viên thuế cao để tăng thu về thuế bằng mọi giá, mà mức độ động viên thuế chỉ có một giới hạn nhất định. Nếu nhà nước dùng quyền lực để tập trung quá mức phần thu nhập từ tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào cho ngân sách nhà nước, thì phần GDP còn lại dành cho các doanh nghiệp và cá nhân sẽ giảm xuống. Đến một lúc nào đó, nếu họ nhận thấy rằng công sức bỏ vào kinh doanh, vào làm việc được bù đắp không thoả đáng thì họ sẽ nghỉ không kinh doanh hoặc chuyển sang kinh doanh ngầm và tìm mọi cách để trốn thuế.  Như vậy, có thể thấy rằng, khả năng thu thuế tối đa cho ngân sách nhà nước là khoản thu nhập mà các doanh nghiệp và người dân sẵn sàng giành ra để trả thuế mà không làm thay đổi mọi hoạt động vốn có của họ. Đứng trên giác độ nền kinh tế quốc dân, khả năng thu thuế của một quốc gia được phản ánh thông qua tỷ lệ phần trăm của GDP được động viên vào ngân sách nhà nước được gọi là hệ số huy động thuế hay hệ số gánh nặng thuế.
Hệ số huy động thuế không chỉ là cơ sở chính để tham khảo việc các quốc gia xây dựng chính sách thuế của họ mà còn là một dấu hiệu để so sánh mức độ huy động thuế giữa các quốc gia khác nhau. Hệ số huy động thuế này bao nhiêu thì ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập sau thuế và gián tiếp đến mức tiêu dùng và tiêu chuẩn sống của nhân dân. Đó là điều mà các quốc gia cần cân nhắc. Trong giai đoạn kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, hệ số huy động thuế có thể phản ảnh xu thế dịch chuyển dòng vốn, lao động giữa các quốc gia trên thế giới.  Vì vậy, để gia tăng sự phồn vinh trong cộng đồng dân cư, tất cả các quốc gia xem thuế là nguồn thu chính, phải đưa ra một mức thuế hợp lý trong chính sách thuế của mình. Độ lớn của hệ số huy động thuế vì thế trở thành một trong những dấu hiệu quan trọng để đánh giá việc hoàn thiện hơn của một nền kinh tế.
Nếu gọi T là tổng số thuế có thể thu được vào Ngân sách Nhà nước thì hệ số huy động thuế là:       T/GDP X 100
Hệ số này được dùng để chỉ ranh giới phân chia hợp lý thu nhập xã hội giữa các khu vực công cộng và khu vực tư nhân. Nếu Nhà nước động viên thuế chưa đạt tới giới hạn khả năng thu thuế thì nguồn lực xã hội tập trung vào tay Nhà nước chưa đầy đủ. Nếu Nhà nước động viên vượt quá giới hạn khả năng thu thuế thì sẽ làm giảm khả năng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng tại doanh nghiệp, do đó làm giảm số thuế thu được trong tương lai.
Hệ số huy động thuế bình quân hàng năm từ năm 1992 thường là 17%  và luôn có  khuynh hướng luôn gia tăng. Hệ số huy động thuế giữa các quốc gia khác nhau tùy theo trình độ phát triển của nền kinh tế nước đó đang trong giai đoạn nào. Ví dụ: Hệ số này ở Đài loan trong năm 1996 là 19,8%, trong khi đó Mỹ là 22,5% và Nhật là 17,5%.
Trong chương trình hành động nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chỉ tiêu duy trì tỷ lệ động viên từ GDP vào ngân sách khoảng từ 18 đến 19%. Như vậy tính trên GNP khả năng chúng ta chỉ đạt đến gần 17%  bởi phần FDI trong nước lớn, trong khi phần đầu tư ra nước ngoài chúng ta còn hạn chế, vì vậy gánh nặng thuế của chúng ta vẫn thuộc nhóm thấp trên thế giới.
- Bản chất nhà nước và các nội dung sử dụng tiền thuế
Hệ số huy động thuế do còn gọi là độ lớn của gánh nặng thuế đánh vào cộng đồng, vì vậy mặt nào đó thể hiện sức chịu đựng của nhân dân trong việc huy động thuế của nhà nước. Hệ số huy động thuế của một quốc gia tăng, chứng tỏ tốc độ tăng tiết kiệm của khu vực dân cư sẽ giảm và tất yếu phần đầu tư trong khu vực tư nhân sẽ khó có khả năng gia tăng. Trong trường hợp hệ số huy động tăng, nhưng chi tiêu chính phủ hợp lý, đầu tư của Chính Phủ hiệu quả, thì sự tăng trưởng của nền kinh tế vẫn bình ổn. Tuy nhiên, theo đánh giá thông thường, đầu tư trong khu vực nhà nước thường kém hiệu quả hơn trong đầu tư của lĩnh vực tư nhân, vì vậy việc tăng mức huy động thuế quá cao sẽ làm cho nền kinh tế giảm bớt nhịp độ phát triển.
Thông thường việc huy động tiền thuế là do cơ quan thuế đảm nhận. Mức huy động cao sẽ gây khó khăn cho việc hành thu và dưới con mắt người dân, cơ quan thuế sẽ khó được thông cảm. Tuy nhiên, việc huy động thuế có thực sự trở thành gánh nặng hay không, còn tùy thuộc vào việc sử dụng tiền thuế của nhà nước đó. Việc sử dụng tiền thuế của các nhà nước trong các thời kỳ tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
Thời kỳ mới xây dựng nhà nước: tiền thuế chủ yếu dùng để mua hàng hoá và dịch vụ để cung ứng cho các hoạt động công cộng thiết yếu như: an ninh, quốc phòng, y tế, giáo dục. Trong thời kỳ này mức thu thường thấp vì kinh tế đang trong tình trạng bất ổn và đời sống nhân dân đang còn nhiều khó khăn. Mức huy động tuy thấp, nhưng để bảo đảm cho các nhiệm vụ chi tiêu này, tỷ lệ huy động trên GDP cũng không thấp.
Thời kỳ ổn định nhà nước: ngoài việc đảm bảo chi cho các nhiệm vụ thiết yếu của đất nước như trên, nhà nước còn sử dụng tiền thuế để trợ giúp thêm cho một nhóm người không còn khả năng lao động, đặc biệt là những người đã đóng góp vào thành quả xây dựng nhà nước - gọi chung là đối tượng xã hội.
Thời kỳ phát triển thêm chức năng kinh tế: Khi thực hiện chức năng điều tiết kinh tế thị trường, các nhà nước thường sử dụng tiền thuế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Một số nhà nước dùng tiền thuế để phát triển các ngành sản xuất độc quyền nhà nước, tuy nhiên phần lớn để làm động lực cho các thành phần kinh tế khác phát triển, các nhà nước dùng tiền thuế tài trợ cho các dự án kinh tế có mục tiêu để thu hút các thành phần kinh tế khác tham gia theo định hướng của mình.  
Thời kỳ phát triển nhà nước phúc lợi: Sau khi ổn định các nhiệm vụ công cộng khác, nhiều nhà nước đứng ra tổ chức các dịch vụ công cộng để gia tăng phúc lợi cho cộng đồng, thông qua việc huy động tiền thuế. Tuy nhiên, hiệu quả của các dịch vụ công vẫn là một vấn đề cần lưu tâm. Các quốc gia phát triển có mức huy động cao, có khi lên đến 35% song do nhờ mở rộng dịch vụ công đến nhiều lĩnh vực khác nhau để phục vụ miễn phí cho cộng đồng, vì vậy cũng rất ít khi bị kêu ca về gánh nặng thuế.
Có thể nói bản chất của một nhà nước không thể hiện ra trong các tôn chỉ nhà nước đó đưa ra, mà nó thể hiện rất cụ thể qua việc sử dụng tiền thuế của nhà nước đó trong việc điều hành đất nước. Việc đánh giá một nhà nước có thật sự do dân, vì dân hay không, chỉ có thể đoán chắc trong việc nhận định và đánh giá mục đích và hiệu quả của việc sử dụng tiền thuế mà người dân đóng góp.
1.3. Phí và Lệ phí
Theo nhiều quan điểm khác nhau và trong từng quốc gia khác nhau, khái niệm phí và lệ phí tồn tại với những nội hàm khác nhau. Trong bối cảnh thực tế của Việt Nam, phí và lệ phí vẫn còn là một nguồn thu bên cạnh thuế, góp phần không nhỏ vào việc đảm bảo hỗ trợ chi tiêu cho ngân sách nhà nước trong giai đoạn chuyển đổi. Tuy nhiên, khi nền kinh tế thị trường thực sự phát triển và đặc biệt khi đất nước hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới, quan điểm về phí và lệ phí sẽ có nhiều thay đổi. Để có sự phân định, phần phí và lệ phí này chỉ được hiểu trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam.  
1.3.1. Khái niệm Phí 
Phí là khoản tiền mà một tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ được nhà nước cho phép thu theo danh mục quy định.
Theo Pháp lệnh Phí và Lệ phí được ban hành năm 2002, Phí bao gồm hai loại:
Phí thuộc ngân sách nhà nước và phí không thuộc ngân sách nhà nước
Phí thuộc ngân sách nhà nước là khoản tiền mà một tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức nhà nước cung cấp dịch vụ không mang tính kinh doanh được Nhà nước cho phép thu theo danh mục quy định.
 Phí không thuộc ngân sách nhà nước là khoản tiền mà một tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ mang tính kinh doanh được Nhà nước cho phép thu theo danh mục quy định.
1.3.2. Khái niệm Lệ phí 
Lệ phí là khoản tiền mà một tổ chức, cá nhân phải trả khi được cơ quan nhà nước hoặc một tổ chức được ủy quyền phục vụ công việc quản lý nhà nước theo danh mục cho phép quy định.
1.3.3. Đặc thù Phí và Lệ phí Việt Nam
Phí không thuộc ngân sách nhà nước là loại phí phổ biến ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Thực chất chúng là giá của dịch vụ. Tuy nhiên, với nhiều quốc gia, như Việt Nam, khi nguồn thu thuế còn hạn hẹp, chưa đáp ứng đủ cho việc hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế thông qua tất cả các loại dịch vụ công cần thiết, Nhà nước phải tính đến việc thu ở người trực tiếp sử dụng dịch vụ công một khoản bổ sung để duy trì dịch vụ. Khoản bổ sung này không phải là giá của dịch vụ theo cơ chế thị trường, mà chỉ là một phần của nó, phần còn lại thông qua con đường hoàn trả gián tiếp tiền thuế từ ngân sách nhà nước. Mặt khác, để nâng cao ý thức của người dân trong việc sử dụng hiệu quả các dịch vụ công, nhiều nhà nước cũng triển khai thu phí thuộc ngân sách nhà nước với mức thu không đáng kể. Khi ngân sách nhà nước đã được bảo đảm đầy đủ thông qua nguồn huy động từ thuế, số lượng và mức thu các loại phí sẽ giảm dần, tiến đến chỉ còn một số loại phí và lệ phí thu trên các quan hệ có yếu tố nước ngoài, như là một sự bảo đảm cho thương hiệu dịch vụ công nội địa.
II. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA THUẾ
2.1. Khái niệm về thuế
Cho đến nay, trong giới các học giả và trên các sách báo kinh tế thế giới vẫn chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm thuế, bởi lẽ giác dộ nghiên cứu có nhiều khác biệt. Nhìn chung, các nhà kinh tế khi đưa ra khái niệm về thuế mới chỉ nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế mà mình muốn khai thác hoặc tìm hiểu, chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung của phạm trù thuế. Chẳng hạn theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản: " Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có những sự đóng góp của những người công dân của Nhà nước đó là thuế khoá...". Và với quan điểm này, thuế chỉ là sự đóng góp của công dân để duy trì quyền lực nhà nước. Cũng từ luận điểm này, Mác phát triển thêm rằng trong một nhà nước có giai cấp (một giai cấp giành được quyền thống trị) thì thuế thực ra là khoản đóng góp bắt buộc để duy trì quyền lực của giai cấp đó. Khi những giai cấp không phải là giai cấp cai trị, nghĩ rằng việc bắt buộc nộp thuế chỉ dùng để bảo vệ quyền lợi cho giai cấp cai trị, thì họ sẽ không coi thuế là nghĩa vụ công dân và sẽ bằng nhiều cách để tránh thuế và trốn thuế. Quan điểm này đã hỗ trợ rất nhiều cho các nhà kinh tế có quan điểm xã hội trong việc củng cố lập trường đấu tranh giai cấp.  
Bên cạnh đó, cũng có các quan điểm khác nhau về thuế, được nhìn nhận trên các bình diện khác. Trong cuốn từ điển kinh tế của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass và Bryan Lowes, đứng trên giác độ đối tượng chịu thuế đã cho rằng : "Thuế là một biện pháp của chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên việc chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản".
 Một khái niệm khác về thuế tương đối hoàn thiện được nêu lên trong cuốn sách "Economics" của hai nhà kinh tế Mỹ, dựa trên cơ sở đối giá như sau: "thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao bằng hàng hoá, dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho chính phủ, mà trong sự trao đổi đó họ không nhận được trực tiếp hàng hoá, dịch vụ nào cả, khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà toà án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật". Trong các quan điểm này, người ta chỉ nhìn nhận thuế trên giác độ các đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế, không nói đến việc sử dụng tiền thuế để làm gì, chỉ thể hiện việc đánh thuế như là một nghĩa vụ công dân của các doanh nghiệp và hộ gia đình với đất nước mà mình đang kinh doanh hoặc đang sinh sống. Các quan điểm này cũng chỉ phù hợp với giai đoạn phát triển của thuế trong thời đoạn lịch sử nhất định lúc đó.
Trên giác độ phân phối thu nhập, người ta định nghĩa: Thuế là hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành các quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Trên giác độ người nộp thuế, thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước theo luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ Nhà nước.
Trên giác độ kinh tế học, thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực công, nhằm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của Nhà nước.    
Ở nước ta, đến nay cũng chưa có một khái niệm thống nhất về thuế. Theo từ điển tiếng Việt - Trung tâm từ điển học (1998) thì thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân hoặc các tổ chức kinh doanh, tuỳ theo tài sản, thu nhập, nghề nghiệp v.v buộc phải nộp cho nhà nước theo mức quy định.
Những khái niệm về thuế nêu trên mới nhấn mạnh một chiều theo quan niệm của từng góc độ khác nhau, nên chưa thật đầy đủ và chính xác được bản chất của thuế. Đến nay, tuy chưa có một định nghĩa về thuế thống nhất, nhưng các nhà kinh tế đều nhất trí cho rằng, để làm rõ được bản chất của thuế thì định nghĩa về thuế phải nêu bật được các khía cạnh sau đây:
- Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa nhà nước với các pháp nhân và các thể nhân, không mang tính hoàn trả trực tiếp;
- Những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt- việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh của nhà nước;
- Các các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế đã được pháp luật quy định.
- Và việc sử dụng tiền thuế phải dành cho mục đích chung.
Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển xã hội, việc quy định thuế phải được sử dụng chung cũng là một vấn đề cần xem xét. Có những loại thuế được thu chỉ nhằm một mục đích định trước và trao cho một số đối tượng quy định.
Dù trải qua nhiều giai đoạn và được nhận định trên nhiều giác độ khác nhau, nhưng hiện nay một định nghĩa về thuế theo xu hướng cổ điển vẫn còn đang được áp dụng phổ biến, đặc biệt trong cơ chế kinh tế thị trường, điển hình là khái niệm về thuế của Gaston Jèze đưa ra trong Giáo trình Tài chính công. Dựa vào định nghĩa này và các yêu cầu nêu trên, có thể đưa ra một khái niệm tổng quát về thuế phù hợp với giai đoạn hiện nay như sau:
Thuế là một khoản nộp bằng tiền mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện theo luật đối với nhà nước; không mang tính chất đối khoản, không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế và dùng để trang trải cho các nhu cầu chi tiêu công cộng.
2.2. Đặc điểm của thuế
Qua phân tích nguồn gốc của sự ra đời của thuế và khái niệm chung về thuế nêu trên, có thể khẳng định rằng: Thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước, được sử dụng để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung nhằm sử dụng cho mục đích công cộng. Tuy nhiên, thuế khác với các công cụ tài chính khác như phí, lệ phí, tiền phạt, giá cả.v.v. Điều này thể hiện qua các đặc điểm  cơ bản của thuế trong kinh tế thị trường như sau:
- Thuế là một khoản trích nộp bằng tiền
Theo phương thức đánh thuế trong nền kinh tế thị trường, về nguyên tắc, thuế là một khoản trích nộp dưới hình thức tiền tệ, khác với hình thức nộp thuế bằng hiện vật đã tồn tại từ thời xa xưa hoặc khác với chế độ giao nộp sản phẩm trong nền kinh tế phi thị trường. Nhiều quan điểm cho rằng, đây chính là sự khác biệt cơ bản và đầu tiên của thuế trong nền kinh tế thị trường và thuế trong các nền kinh tế khác. Chính sự phát triển của hoạt động trao đổi hàng hoá bằng tiền đã làm cho thuế phát triển, và ngược lại, việc bắt buộc nộp các khoản thuế bằng tiền đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường bằng cách đòi hỏi người nộp thuế trong trường hợp không có tiền phải đổi những tài sản hiện vật của mình ra thành tiền để thanh toán nợ thuế.
Tuy nhiên, hình thức trả thuế bằng hiện vật cũng không hoàn toàn mất đi trong hệ thống chính sách thuế đương đại. Một số quốc gia vẫn duy trì hình thức này dưới dạng thanh toán thuế bằng tặng vật với một số hiện vật qúy, như khi đào được cổ vật phải nộp thuế cho nhà nước với một tỷ lệ hiện vật tùy theo quy định cụ thể. Kỹ thuật này giúp Nhà nước sưu tập được những di sản quốc gia quý giá từ dân chúng để bảo tồn tập trung những giá trị văn hoá của dân tộc, nhân loại.
- Luôn gắn liền với quyền lực nhà nước
Đặc điểm này thể hiện tính pháp lý tối cao của thuế. Thuế là nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến Pháp - Đạo luật gốc của một quốc gia. Việc ban hành, sửa đổi, bổ sung, hay bãi bỏ bất kỳ một thứ thuế nào cũng chỉ có một cơ quan duy nhất có thẩm quyền, đó là Quốc Hội - Cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao. Mặt khác tính quyền lực Nhà nước cũng thể hiện ở chỗ Nhà nước không thể thực hiện thu thuế một cách tuỳ tiện mà phải dựa trên những cơ sở pháp luật nhất định đã được xác định trong các văn bản pháp luật do các cơ quan quyền lực Nhà nước ban hành. Ở các quốc gia, do vai trò quan trọng của thuế đối với việc hình thành qũy ngân sách Nhà nước và những ảnh hưởng của nó đối với đời sống kinh tế - xã hội nên thẩm quyền quy định, sửa đổi, bãi bỏ các Luật thuế đều thuộc cơ quan lập pháp. Ðây là nguyên tắc sớm được ghi nhận trong pháp luật của các nước. Chẳng hạn ở nước Anh đạo Luật về dân quyền năm 1688 quy định: cấm mọi sự thu thuế để dùng vào việc chi tiêu của Nhà nước nếu không được Quốc hội chấp thuận. ở Pháp, Quốc hội Pháp quy định: bất cứ một khoản thuế nào nếu không được Quốc hội chấp thuận thì không được áp dụng. Hiến pháp của nước Cộng hòa Pháp năm 1791 quy định Quốc hội Pháp có quyền biểu quyết và định đoạt các Luật thuế. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các Luật thuế. Tuy vậy, do yêu cầu điều chỉnh các quan hệ pháp luật về thuế, Quốc hội có thể giao cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ một số loại thuế thông qua hình thức ban hành Pháp lệnh hoặc Nghị quyết về thuế. Đây là quan điểm “No Tax, No Law” mà nhiều nước áp dụng. Nghĩa là, công dân không phải nộp bất kỳ loại thuế nào nếu loại thuế đó chưa được ban hành dưới dạng Luật.
Theo quan điểm này, công dân không có quyền từ chối trả thuế, cũng không có quyền tự ấn định hay thỏa thuận mức đóng góp của mình, mà chỉ có quyền chấp hành. Trường hợp đối tượng nộp thuế nào cố tình không chấp hành sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật để buộc họ phải làm tròn nghĩa vụ nộp thuế của mình theo luật định.
Đây là đặc trưng cơ bản nhất của thuế nhằm phân biệt với tất cả các hình thức động viên tài chính cho Ngân sách Nhà nước khác.
- Luôn gắn liền với thu nhập
Đặc điểm này thể hiện rõ nội dung kinh tế của thuế. Nhà nước thực hiện thu thuế thông qua quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, mà kết quả của nó là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao bắt buộc cho Nhà nước mà không kèm theo bất kỳ một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế. Thuế, cho dù dưới bất kỳ hình thức nào đều buộc người trả thuế phải lấy một khoản thu nhập của mình ra thanh toán cho Nhà nước mà không cần biết mình đã chuẩn bị được khoản thu nhập đó hay chưa.
Với đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính tự nguyện hoặc hình thức phạt tiền tuy có tính chất bắt buộc, nhưng chỉ áp dụng đối với những tổ chức cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật.
- Không hoàn trả trực tiếp và được sử dụng để đáp ứng chi tiêu công cộng.
Tính chất không hoàn trả trực tiếp được thể hiện trên các khía cạnh:
Thứ nhất, Sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất đối giá. Về mặt pháp lý, thuế không là giá cả của dịch vụ cung cấp. Vì vậy, người nộp thuế không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế bằng cách viện cớ là Nhà nước sử dụng tiền thuế không có hiệu quả. Họ cũng không thể đòi hỏi số tiền thuế do họ nộp phải phân bổ cho dịch vụ công này hay hoạt động khác. Mặt khác, họ cũng không thể từ chối nộp thuế với lý do số thuế thu được tài trợ cho các khoản chi tiêu trái với những nguyên tắc của nó.
Thứ hai, Các khoản thuế đã nộp cho Nhà nước sẽ không được dùng phục vụ trực tiếp cho người nộp thuế. nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp trong xã hội chuyển giao cho Nhà nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thừa hưởng những dịch vụ và hàng hoá công cộng do Nhà nước cung cấp. Người nộp thuế không có quyền đòi hỏi Nhà nước cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng trực tiếp cho mình mới nộp thuế cho Nhà nước. Người nộp thuế sẽ nhận được một phần các hàng hoá, dịch vụ công cộng mà Nhà nước đã cung cấp cho cả cộng đồng, phần giá trị mà người nộp thuế được hưởng thụ không nhất thiết tương đồng với khoản thuế mà họ đã nộp cho Nhà nước. Đặc điểm này của thuế giúp ta phân định rõ thuế với các khoản phí, lệ phí và giá cả.
Khái niệm chi tiêu công cộng ngày nay không chỉ được hiểu theo nghĩa bó hẹp trong các khoản chi tiêu cho việc duy trì bộ máy nhà nước. Trên thực tế, nhà nước hiện nay còn thực hiện nhiều chức năng kinh tế, xã hội, văn hoá... và tất yếu các hoạt động này cũng chỉ được chi trả bằng thuế.
2.3. Phân biệt thuế với Phí, Lệ phí.
Thuế và Phí, Lệ phí đều là nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, từ các khái niệm của thuế, phí và lệ phí, người ta đưa ra một số dấu hiệu đặc trưng để phân biệt giữa Thuế với Phí và Lệ phí như sau:  
· Xét về mặt giá trị pháp lý.
Thuế có giá trị pháp lý cao hơn lệ phí, phí. Thuế được ban hành dưới dạng văn bản pháp luật như: Luật, Pháp lệnh do Quốc hội và  ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Trình tự ban hành một Luật thuế phải tuân theo một trình tự chặt chẽ và nhất thiết phải được Quốc hội thông qua. Trong khi đó lệ phí, phí sau khi được Ủy ban Thường vụ cho phép sẽ được ban hành đưới dạng Nghị định, Quyết định của chính phủ; Quyết định của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Nghị quyết của hội đồng nhân dân cấp tỉnh.
· Xét về mức độ ảnh hưởng đối với nền kinh tế - xã hội thì thuế và Phí, lệ phí được xem xét ở  3 giác độ sau:
- Cùng tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, nhưng thuế là nguồn thu quan trọng nhất cho ngân sách nhà nước.
- Ðiều chỉnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý và định hướng phát triển kinh tế. Thuế có tác động lớn đến toàn bộ qúa trình phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, đồng thời thuế là một bộ phận rất quan trọng cấu thành chính sách tài chính quốc gia. Trong khi đó lệ phí, phí không có những tác dụng nói trên, nó chỉ có tác dụng tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, việc tạo nguồn này không phải dùng đáp ứng nhu cầu chi tiêu mọi mặt của Nhà nước, mà trước hết dùng để bù đắp các chi phí hoạt động của các cơ quan cung cấp cho xã hội một số dịch vụ công cộng như: dịch vụ công chứng, dịch vụ đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản, dịch vụ hải quan...
- Ngoài dấu hiệu là thuế được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước, thuế còn được phân biệt với lệ phí, phí ở chổ các cá nhân và pháp nhân có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước nhưng không trên cơ sở được hưởng những lợi ích vật chất tương ứng mang tính chất đối giá. Thực chất thuế mang tính đóng góp nhiều hơn. Trong khi đó hình thức lệ phí, phí  nói chung mang tính tự nguyện và có tính chất đối giá. Các khoản phí, ngược lại với thuế, nó có nét giống như giá cả. Như vậy, phí là đối khoản cụ thể của việc sử dụng các dịch vụ do tổ chức công cộng cung cấp để trang trải trực tiếp cho các chi phí trong việc cung cấp này. Một số nước quy định các khoản phí này sau khi thu được sẽ phân bổ cho các tổ chức cung cấp dịch vụ. Trong khi đó lệ phí là khoản tiền nhận được tại thời điểm cung cấp dịch vụ, nên có tính chất của một khoản thù lao. Lệ phí về cơ bản giống với phí vì chúng đều gắn với dịch vụ cung cấp. Tuy nhiên, giữa chúng có sự khác nhau ở hai điểm: Thứ nhất, lệ phí không chỉ thu của người sử dụng dịch vụ thực tế, mà còn của cả người sử dụng dịch vụ tiềm năng; thứ hai, giữa giá trị dịch vụ nhận được và giá phải trả không nhất thiết bằng nhau. Tính bắt buộc của lệ phí và phí chỉ xảy ra khi chủ thể nộp lệ phí, phí thừa hưởng trực tiếp những dịch vụ do Nhà nước cung cấp.
- Bên cạnh đó, thuế không mang tính hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Tính chất không hoàn trả trực tiếp của thuế thể hiện ở chỗ Nhà nước thu thuế từ các cá nhân và pháp nhân trong xã hội nhưng không bị ràng buộc bởi trách nhiệm phải hoàn trả lại cho từng người nộp cụ thể. Người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận được các lợi ích vật chất từ việc sử dụng các dịch vụ công cộng do Nhà nước sử dụng các khoản chi của ngân sách Nhà nước để thực hiện các chính sách kinh tế xã hội chung cho cả cộng đồng. Tuy nhiên, giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiết tương đồng với khoản tiền thuế mà họ đã nộp cho Nhà nước. Tính chất này của thuế cho phép chúng ta phân biệt thuế với lệ phí, phí và các khoản thu mà Nhà nước tập trung vào ngân sách Nhà nước nhưng ràng buộc trách nhiệm hoàn trả cho đối tượng nộp dưới các hình thức như vay nợ, tạm ứng cho ngân sách Nhà nước.
· Xét về tên gọi và mục đích.
Mục đích của từng loại phí rất rõ ràng, thường phù hợp với tên gọi của nó. Nói một cách chính xác hơn, tên gọi của loại lệ phí nào phản ánh khá đầy đủ mục đích sử dụng loại lệ phí đó.
Mỗi một Luật thuế đều có mục đích riêng. Tuy nhiên, đa số các sắc thuế có tên gọi không phản ánh đúng mục đích sử dụng, mà thường phản ánh đối tượng tính thuế. Nói chung mục đích của việc sử dụng của các loại thuế thường là tạo nguồn qũy ngân sách Nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi ngân sách Nhà nước, thực hiện chức năng quản lý xã hội của Nhà nước.
III. CHỨC NĂNG, VAI TRÒ CỦA THUẾ
3.1. Chức năng của thuế.
Chức năng của một sự vật hay một hiện tượng là sự thể hiện công dụng vốn có của nó. Ðối với một phạm trù kinh tế - xã hội thì chức năng phản ánh sự tác động của nó - là một phương thức đặc biệt biểu hiện những thuộc tính vốn có của phạm trù. Cũng như bản chất, chức năng cũng có tính ổn định tương đối của nó trong suốt thời gian tồn tại của sự vật hay đối tượng.
Thuế là một phạm trù tài chính, nó biểu hiện những thuộc tính chung vốn có của các quan hệ tài chính. Tuy nhiên, thuế cũng có những đặc trưng, hình thức vận động và các chức năng riêng bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính.
Căn cứ vào nội dung cùng với qúa trình ra đời, tồn tại và phát triển của thuế, chúng ta thấy rằng thuế thực hiện các chức năng sau đây:
3.1.1. Chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính hay chức năng phân phối thu nhập.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng tăng phụ thuộc vào các công việc Nhà nước đảm nhiệm.
Để huy động nguồn lực vật chất cho mình, Nhà nước có thể sử dụng nhiều hình thức khác nhau như: phát hành thêm tiền; phát hành trái phiếu để vay trong nước và ngoài nước; bán một phần tài sản quốc gia; thu thuế.... Trong các hình thức nêu trên thì thuế là công cụ chủ yếu và có vai trò quan trọng nhất. Vì so với các hình thức huy động khác, sử dụng công cụ thuế có những ưu điểm:
- Thuế là một công cụ phân phối lại có lĩnh vực và phạm vi rộng lớn. Đối tượng nộp thuế bao gồm toàn bộ thể nhân và pháp nhân hoạt động kinh tế và các hoạt động khác có làm phát sinh hành vi điều tiết thuế.
- Phương thức huy động của thuế là sử dụng phương pháp chuyển giao thu nhập bắt buộc. Chính vì vậy, nguồn thu từ thuế được đảm bảo tập trung một cách nhanh chóng, thường xuyên và ổn định.
- Thông qua thu thuế, một bộ phận của tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong nước tạo ra, đã tập trung vào Nhà nước để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng và thực hiện các biện pháp kinh tế - xã hội.
- Tính ưu thế của động viên thông qua thuế so với các công cụ khác còn thể hiện ở chỗ: thuế kết hợp hài hoà giữa phương pháp cưỡng bức và kích thích vật chất nhằm tạo ra sự quan tâm của các đối tượng nộp thuế tới chất lượng sản xuất và hiệu quả kinh doanh.
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các pháp nhân và thể nhân trong xã hội. Việc các chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Cũng như pháp luật nói chung, Pháp luật thuế có chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều chỉnh quan hệ pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập qũy ngân sách Nhà nước. Hầu hết ở các quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định để thu ngân sách Nhà nước.
Ngay từ khi ra đời thuế luôn luôn có công dụng là phương tiện huy động nguồn lực tài chính cho Nhà nước. Người ta gọi công dụng này là chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế. Đây là chức năng cơ bản của thuế, đặc trưng cho thuế ở tất cả các dạng Nhà nước, trong tiến trình phát triển của xã hội. Về mặt lịch sử, chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính là chức năng đầu tiên, phản ánh nguyên nhân sự ra đời của thuế.
Thông qua chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế mà các quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình thành, để đảm bảo cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước. Chính chức năng này đã tạo ra những tiền đề để Nhà nước tiến hành tham gia phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Do đó chức năng này còn được gọi là chức năng phân phối của thuế.
Sự phát triển và mở rộng các chức năng của Nhà nước đòi hỏi phải tăng cường chi tiêu tài chính, do đó vai trò của chức năng huy động tập trung nguồn lực của thuế ngày càng được nâng cao. Thông qua thuế, một phần đáng kể tổng sản phẩm quốc nội được tập trung vào Ngân sách Nhà nước. Thuế trở thành nguồn thu có tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu Ngân sách Nhà nước của tất cả các nước có nền kinh tế thị trường. Hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới, sau khi thực hiện cải cách hệ thống thuế, số thu từ thuế và phí thường chiếm tới trên 90% tổng số thu Ngân sách Nhà nước.
Chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính tạo ra những tiền đề khách quan cho sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế. Trong quá trình thực hiện chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế đã tự động làm xuất hiện chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế.
3.1.2. Chức năng điều tiết
* Điều tiết kinh tế
Nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực cũng chứa đựng những khuyết tật vốn có của nó. Chính đó là lý do biện minh cho sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình hoạt động của nền kinh tế thị trường. Nhà nước thực hiện điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô bằng cách đưa ra những chuẩn mực mang tính định hướng lớn trên diện rộng và bằng các công cụ đòn bẩy để hướng các hoạt động kinh tế - xã hội theo các mục tiêu Nhà nước đã định và tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động kinh tế - xã hội thực hiện trong khuôn khổ luật pháp.
Chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế tự động xuất hiện trong quá trình thực hiện chức năng huy động tập trung nguồn lực tài chính của thuế, nhưng phải đến những năm đầu của thế kỷ XX thì chức năng này mới được nhận thức đầy đủ và sử dụng rộng rãi và gắn liền với vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Nhà nước thực hiện quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội bằng nhiều biện pháp như giáo dục chính trị tư tưởng, hành chính, luật pháp và kinh tế, trong đó biện pháp kinh tế làm gốc. Nhà nước cũng sử dụng nhiều công cụ để quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế như các công cụ tài chính, tiền tệ, tín dụng. Trong đó, thuế là một công cụ thuộc lĩnh vực tài chính và là một trong những công cụ sắc bén nhất được Nhà nước sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Nhà nước thực hiện chức năng điều chỉnh của thuế thông qua việc quy định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế; xây dựng chính xác, hợp lý các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp thuế. Với công cụ thuế, sự can thiệp của Nhà nước không mang tính chất mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể phải kinh doanh hay không kinh doanh, mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với các chủ thể trong việc xác định phạm vi hoạt động kinh doanh của mình.
Dựa trên cơ sở xác định mục tiêu và đối tượng ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của nền kinh tế trong từng giai đoạn cụ thể, Nhà nước điều chỉnh thuế để tạo ra những thay đổi trong nền kinh tế quốc dân theo hướng mong muốn bao gồm: điều chỉnh chu kỳ kinh tế; cơ cấu ngành, khu vực và từng vùng lãnh thổ; lưu thông tiền tệ; giá cả; tiền lương; phân phối thu nhập; các mối quan hệ kinh tế đối ngoại; bảo vệ môi trường ... Như vậy, nội dung điều chỉnh của thuế đối với nền kinh tế quốc dân rất rộng, nó bao hàm hầu hết các quá trình điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Dưới đây là một số nội dung điều tiết cơ bản của thuế đối với nền kinh tế quốc dân:
- Điều chỉnh chu kỳ nền kinh tế
Đây là một trong những nội dung quan trọng của quá trình sử dụng công cụ thuế điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường thì sự phát triển theo chu kỳ là điều không thể tránh khỏi. Theo chu kỳ, thị trường sẽ phát triển, đến một thời điểm cung vượt cầu, mọi hoạt động của nền kinh tế sẽ bị đình trệ và bước vào suy thoái. Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng ổn định, Nhà nước đã sử dụng thuế để điều chỉnh quá trình đó. Trong những năm khủng hoảng và suy thoái kinh tế, Nhà nước có thể hạ thấp mức thuế, tạo ra những điều kiện ưu đãi về thuế thuận lợi nhằm kích thích nhu cầu tiêu dùng để tăng đầu tư và mở rộng sức sản xuất. Điều đó có thể đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng nhanh chóng. Ngược lại, trong thời kỳ phát triển quá mức, có nguy cơ dẫn đến mất cân đối, bằng cách tăng thuế, thu hẹp đầu tư, Nhà nước có thể giữ vững nhịp độ tăng trưởng theo mục tiêu đặt ra. Để có thể điều tiết chu kỳ kinh tế hiệu quả, thông thường các Nhà nước  dựa vào việc áp dụng các loại thuế có mức độ ổn định tự động cao, điển hình là thuế đánh trên thu nhập theo biểu thuế lũy tiến. Tuy nhiên, cũng có Nhà nước dùng biện pháp điều chỉnh chính sách cho từng thời kỳ bằng cách hạ hay tăng thuế suất đánh vào những hoạt động chủ yếu để tác động đến toàn bộ nền kinh tế.
- Thuế góp phần hình thành cơ cấu ngành hợp lý
Trong từng giai đoạn phát triển nền kinh tế nhất định, mỗi quốc gia có một cơ cấu kinh tế hợp lý nhất định, nhằm khai thác tốt nhất nguồn tài nguyên của mình trên cơ sở lợi thế so sánh tuyệt đối. Trong điều kiện kinh tế hội nhập quốc tế, việc bố trí cơ cấu ngành cũng còn phụ thuộc vào việc lợi thế so sánh tương đối của kinh tế trong nước và với các quốc gia khác có quan hệ thương mại. Việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý không chỉ được phó mặc toàn bộ cho các quy luật thị trường diễn biến tự do, theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân, mà còn đòi hỏi phải được điều chỉnh bởi Nhà nước, để phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xã hội từng thời kỳ. Bằng việc ban hành hệ thống chính sách thuế, Nhà nước sẽ quy định đánh thuế hoặc không đánh thuế, đánh thuế với thuế suất cao hoặc thấp vào các ngành nghề, các mặt hàng cụ thể. Thông qua đó Nhà nước có thể thúc đẩy sự phát triển của những ngành kinh tế quan trọng hoặc san bằng tốc độ tăng trưởng giữa chúng, đảm bảo sự cân đối giữa các ngành nghề trong nền kinh tế. Tuy nhiên, việc điều chỉnh cơ cấu phải được xem xét rất thận trọng. Bởi lẽ, thuế sẽ làm méo mó các quan hệ kinh tế khi áp dụng. Việc xác định điều chỉnh không đúng, sẽ tạo cơ hội tăng trưởng của các ngành kinh tế kém hiệu quả và kém cạnh tranh, làm cho hợp lực của toàn bộ nền kinh tế bị triệt tiêu ít nhiều.
- Điều chỉnh tích luỹ vốn
Đây là một nội dung quan trọng của điều chỉnh thuế. Tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh trong thị trường, tất cả các nhà đầu tư đều mong muốn chiếm hữu và bổ sung vốn từ lợi nhuận để mở rộng hoạt động kinh doanh. Đây luôn là mục đích cơ bản của hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Để góp phần hạn chế tăng trưởng nóng của các nền kinh tế, làm giảm hiệu quả sử dụng tài nguyên; hoặc để thúc đẩy nền kinh tế đang trì trệ, Nhà nước cần sử dụng thuế để điều chỉnh sự tích luỹ, tạo sự thay đổi trong chu kỳ kế tiếp. Trong nền kinh tế thị trường, việc đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước không được xem là hoạt động chi tiêu Chính Phủ. Do đó, tăng thuế đồng nghĩa với việc tăng chi tiêu Chính Phủ và giảm cơ hội tích lũy vốn của các doanh nghiệp (kể cả của doanh nghiệp nhà nước). Sự phát triển nền kinh tế luôn đòi hỏi phải tăng nhanh vốn đầu tư cơ bản, để phát triển nền kinh tế quốc dân, Nhà nước cần phải khuyến khích tích luỹ và tích tụ trong các doanh nghiệp, để tạo ra nguồn vốn đầu tư. Việc thay đổi  các chính sách thuế của Nhà nước có thể ảnh hưởng đến quy mô và tốc độ tích luỹ vốn và, do đó tác động đến quá trình đầu tư phát triển kinh tế.
- Bảo hộ nền sản xuất trong nước
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, tất yếu dẫn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trên thị trường nội địa. Đặc biệt, khi một đất nước đã tham gia hội nhập kinh tế tài chính quốc tế, các doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Trong quá trình cạnh tranh này, sẽ có doanh nghiệp phát triển, nhưng cũng có những doanh nghiệp lụn bại. Việc phát triển hay phá sản của các doanh nghiệp hoàn toàn do hiệu quả hay hậu quả của các hoạt động kinh doanh bản thân doanh nghiệp mang lại. Những ngành sản xuất kém hiệu quả sẽ dần được thay thế bởi những ngành sản xuất hoạt động có hiệu quả hơn. Những nhà đầu tư kém cỏi dù trong nước hay nước ngoài sẽ nhường chỗ cho những nhà đầu tư có khả năng quản lý và tiềm lực tài chính hơn. Những vùng kinh tế phát triển sẽ thay thế dần những vùng kinh tế chậm phát triển để hợp lực thành sức mạnh của cả nước. Tuy nhiên, trong quá trình cạnh tranh và thu hút đầu tư đó, một yếu tố thúc đẩy không kém phần quan trọng là can thiệp của Nhà nước. Nhà nước có định hướng phát triển nhất định cho các vùng kinh tế, để tránh sự mất cân đối theo ngành, vùng, tạo nên sự phát triển bền vững và ổn định. Nhà nước về mặt nào đó cũng phải có trách nhiệm hơn với các nhà đầu tư là các công dân của mình, để giúp họ có thể kinh doanh có hiệu quả ngay trên đất nước của họ. Vì vậy, xu thế bảo hộ cho các nhà đầu tư trong nước, cũng như khuynh hướng bảo hộ những ngành nghề sản xuất truyền thống của dân tộc là một yêu cầu tất yếu buộc mọi nhà nước đều phải quan tâm.
Khi chưa tham gia hội nhập kinh tế, để thực hiện được chính sách bảo hộ này, các nhà nước có thể áp dụng nhiều giải pháp và chính sách khác nhau. Có thể sử dụng các biện pháp cấm đoán, áp dụng hạn ngạch, giảm thuế, miễn thuế.... Ðối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp. Thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, khi đã tham gia hội nhập, nhiều giải pháp phi thuế lẫn thuế đều bị cấm áp dụng, nếu không muốn bị áp dụng các biện pháp đối kháng hoặc trả đủa. Trong bối cảnh hội nhập, chỉ việc sử dụng công cụ thuế một cách hợp lý, mới có thể bảo hộ được các doanh nghiệp nội địa phù hợp với yêu cầu chung.
* Điều tiết tiêu dùng
Nhà nước trong vai trò hướng dẫn xã hội đến những giá trị tốt đẹp, phải định hướng các khuynh hướng tiêu dùng. Nhà nước hướng dẫn tiêu dùng có thể bằng nhiều biện pháp kể cả hành chính, xã hội và kinh tế. Tuy nhiên, giải pháp hữu hiệu nhất có thể áp dụng trong một đất nước cởi mở, dân chủ theo nền kinh tế thị trường là áp dụng chính sách thuế. Việc áp dụng các mức thuế gián thu phân tầng như thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt... sẽ làm giảm cầu với những hàng hoá, dịch vụ mà nhà nước cho là cần hạn chế hoặc nên ưu đãi. Thông qua điều chỉnh mức thuế suất thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mà gây nên áp lực tăng giá hàng nhập khẩu, giảm khả năng cạnh tranh so với hàng sản xuất trong nước, từ đó điều chỉnh khối lượng hàng hoá đưa ra thị trường và đưa vào để thực hiện bảo hộ nền sản xuất trong nước và bảo vệ lợi ích của thị trường nội địa. Mặt khác, tác động đánh thuế nhập khẩu cũng gây nên phản ứng của người tiêu dùng trong nước tạo nên sự lựa chọn của họ trong tiêu dùng. Ngoài ra người ta còn sử dụng công cụ thuế để kích thích việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hay ít nhất là giảm đến mức thấp nhất tính kém hiệu quả của sản xuất trong nước. Chẳng hạn, trong trường hợp cần hạn chế xuất khẩu những hàng hoá mà giá cả của chúng bị ấn định bởi giá cả bất lợi của thị trường thế giới, gây thiệt hại cho sản xuất trong nước, trường hợp này có thể sử dụng thuế xuất khẩu để kích thích chuyển các nguồn lực từ sản xuất hàng xuất khẩu sang sản xuất hàng hoá tiêu dùng nội địa.  Việc phân tầng các mức thuế gián thu này, phù hợp với các nguyên tắc thị trường, dù cho mức độ hội nhập của quốc gia đó cao hay thấp. Điều cần chú ý là tránh phân biệt đối xử với hàng hoá, dịch vụ trong và ngoài nước kể cả trên việc áp dụng thuế suất nhập khẩu hay thuế nội địa, vì việc này vi phạm các cam kết quốc tế khi đã tham gia hội nhập.
* Điều tiết xã hội
Hệ thống chính sách thuế trong nền kinh tế thị trường hội nhập được áp dụng thống nhất chung cho các ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, trong và ngoài nước nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thế nhân và pháp nhân.
Sự phân hoá giàu nghèo trong một nền kinh tế hội nhập sẽ có nguy cơ diễn ra cao hơn. Điều này do một bộ phận người lao động có điều kiện thích nghi với các ngành nghề chiếm ưu thế trong giai đoạn hội nhập. Nhưng ngược lại cũng có một bộ phận người lao động bị thải ra ngoài vì không đáp ứng kịp các yêu cầu của hội nhập. Sự phân hoá này về lâu dài vẫn duy trì và mở rộng, cho dù thu nhập tuyệt đối của toàn xã hội được nâng cao. Đây chính là động lực để người lao động năng nổ, cải thiện kỹ năng và nâng cao trình độ tay nghề. Nhưng đây cũng chính là nguyên nhân tạo ra những hố ngăn cách xã hội. Thực hiện chính sách công bằng theo quan điểm cào bằng sẽ làm triệt tiêu động lực làm việc của người lao động, ngược lại sẽ làm cho mâu thuẩn xã hội ngày càng tăng cao, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước. Trong bối cảnh đó, thuế, đặc biệt là các loại thuế thu nhập giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện công bằng và làm giảm khoảng cách phân hoá giàu nghèo.  
Hiện nay, xu hướng chung của các quốc gia là xây dựng các quy phạm pháp luật thuế theo hướng hội nhập quốc tế, đơn giản hóa cơ cấu hệ thống thuế và thuế suất...Tuy vậy, việc thực hiện xu hướng chung đó không làm triệt tiêu vai trò của pháp luật thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường.
Khi nền kinh tế có mức thất nghiệp cao thì cùng với việc mở rộng các khoản chi tiêu của Chính phủ, thuế cần phải được cắt giảm để tăng tổng cầu và việc làm. Trong thời kỳ nền kinh tế lạm phát thì cùng với việc cắt giảm các khoản chi tiêu của Chính phủ, thuế lại được gia tăng để giảm tổng cầu và hạn chế sự gia tăng của nền kinh tế. Nghĩa là, trên phương diện nào đó, thuế cũng được dùng để mở rộng hoặc thu hẹp các cơ hội việc làm.
 * Những phương pháp Nhà nước sử dụng công cụ thuế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Tác động điều tiết vĩ mô nền kinh tế của thuế chỉ đem lại hiệu quả thiết thực khi công cụ thuế được Nhà nước áp dụng theo các phương pháp điều chỉnh thích hợp. Việc can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào chính sách thuế bằng cách phân biệt đối xử về thuế với các đối tượng muốn điều tiết là phương thức phổ biến với các nước chưa đạt mức độ thị trường hoá cao, đặc biệt là chưa hội nhập kinh tế. Với những quốc gia có nền kinh tế thị trường hội nhập kinh tế thế giới, việc điều tiết thông qua công cụ thuế cần thực sự hợp lý và được ban hành hợp pháp trong các văn bản quy phạm pháp luật. Trong thực tiễn thế giới có rất nhiều phương thức Nhà nước sử dụng công cụ thuế để tác động đến nền kinh tế. Dưới đây là một số phương pháp điều chỉnh chủ yếu của thuế :
- Xác định mối quan hệ hợp lý giữa thuế trực thu và thuế gián thu.
Tất cả các loại thuế đều có thể được phân chia thành thuế trực thu và thuế gián thu. Sự cần thiết áp dụng các loại thuế gián thu và trực thu trong quá trình sử dụng công cụ thuế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế được quyết định bởi tính đặc thù của mỗi loại thuế cụ thể.
Thuế trực thu hay thuế gián thu đều có những nét đặc trưng riêng, có ưu điểm và nhược điểm riêng của mỗi loại thuế. Vì vậy, tuỳ theo đặc điểm trình độ phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước trong từng thời kỳ mà người ta có thể lựa chọn coi trọng loại thuế gián thu hơn thuế trực thu và ngược lại.
Thông thường thuế gián thu được đánh trên hàng hoá, dịch vụ, có diện đánh thuế rộng và ít bị hạn chế, nên có thể áp dụng thuế suất thấp, nhưng mang lại số thu lớn cho Ngân sách Nhà nước. Áp dụng thuế gián thu thì khả năng thất thu thuế ít và ít gây tác động tiêu cực hơn thuế trực thu. Bằng việc đánh thuế gián thu, Nhà nước có thể tác động tới nhu cầu tiêu dùng xã hội, qua đó tác động tới sản xuất, kinh doanh. Do đó, vai trò của thuế gián thu không chỉ điều tiết khả năng tiêu dùng mà còn hiệu chỉnh quy mô và tốc độ hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khi đó, thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập thu được của pháp nhân hoặc thể nhân, nó làm giảm ngay khả năng sử dụng thu nhập kiếm được của thể nhân và pháp nhân đó, gây cảm giác mất mát ngay cho người nộp thuế. Mặt khác, thuế trực thu buộc phải tính đến việc khấu trừ các chi phí mà thể nhân hoặc pháp nhân bỏ ra để tìm kiếm thu nhập, vì vậy việc khấu trừ rất phức tạp, dễ bị khai gian, trốn thuế khó kiểm soát.
Việc điều chỉnh mức độ động viên thuế gián thu dễ dàng mà ít bị dân chúng phản ứng do đã được thông qua hành vi tiêu dùng. Hơn nữa thủ tục thu nộp cũng dễ dàng, dễ quản lý và chi phí quản lý thấp hơn so với thuế trực thu. Trong khi đó, do phải tính đến các yếu tố khấu trừ cụ thể của từng hoạt động và gia cảnh của từng người nên thuế trực thu được quy định rất phức tạp. Việc quản lý thuế trực thu rất khó khăn, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ thuế đông đảo và có trình độ chuyên môn, quản lý kinh tế cao, kèm theo việc áp dụng các phương tiện quản lý có kỹ thuật hiện đại với một hệ thống pháp luật đầy đủ, có hiệu lực và quan hệ giao tiếp công vụ tốt.
Mặt khác số thu về thuế gián thu có tính chất ổn định hơn thuế trực thu vì thuế gián thu đánh vào tiêu dùng, nên ngay cả khi kinh tế đi xuống người ta vẫn phải mua sắm và chi tiêu cho những nhu cầu thiết yếu, do vậy Nhà nước vẫn thu được thuế mà không giảm sút đáng kể. Còn thuế trực thu thông thường được xây dựng trên nguyên lý ổn định tự động cao và đánh vào thu nhập theo hình thức lũy tiến, nên thường bị biến động. Nếu tình hình kinh tế phát triển tốt, thu nhập sẽ khá hơn và từ đó thuế trực thu sẽ tăng. Ngược lại, thì sự suy giảm kinh tế có thể làm giảm đi số lượng thu nhập từ thuế trực thu một cách rõ rệt. Tuy đây là nhược điểm về số thu, nhưng lại là ưu điểm để vực dậy nền kinh tế sau khủng hoảng, nhờ tạo điều kiện tăng tích lũy để bổ sung vốn nhằm tái đầu tư cho nền kinh tế.
Các hình thức thuế trực thu có vai trò khác nhau trong phân phối thu nhập và điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Thuế thu nhập cá nhân giữ vị trí quan trọng để điều tiết thu nhập của dân cư. Mặc dù có thể tác động đến hành vi tiết kiệm của người dân, nhưng khả năng kích thích hiệu quả đầu tư của thuế thu nhập cá nhân lại rất thấp. Trong trường hợp đó, để bổ khuyết, người ta sử dụng thuế thu nhập công ty tác động tới sự tích luỹ vốn và mở rộng sản xuất, phát triển kinh doanh.
Chính vì vậy, Nhà nước không thể chỉ áp dụng một loại thuế nào đó để đạt được các mục tiêu điều tiết vĩ mô nền kinh tế, mà bắt buộc phải sử dụng nhiều loại thuế khác nhau, cũng như kết hợp chặt chẽ giữa thuế trực thu và thuế gián thu. Xử lý tốt mối quan hệ giữa thuế trực thu và thuế gián thu để hệ thống chính sách thuế của Nhà nước thực hiện tốt chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Mỗi một tương quan theo tỷ lệ giữa chúng sẽ đáp ứng những mục tiêu, yêu cầu nhất định của Nhà nước trong hoạt động quản lý của mình. Việc xác định một mối quan hệ cụ thể nào đó thông thường phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, mức thu nhập của dân cư và quy mô tích luỹ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ý nghĩa của những loại thuế cơ bản trong sự kết hợp của từng nước cũng có sự khác nhau. Trong điều kiện năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh doanh thấp, thu nhập thực tế của dân cư không cao thì thuế thu nhập không thể trở thành nguồn thu chủ yếu cuả Ngân sách Nhà nước. Khi đó nguồn thu chủ yếu của thuế sẽ chuyển từ thuế trực thu sang thuế gián thu. Điều đó đã được minh chứng rằng, trong điều kiện suy thoái kinh tế, không phải ngẫu nhiên mà một vài quốc gia đã áp dụng phương pháp hạ thấp thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập công ty để kích thích đầu tư phát triển nền kinh tế. Ngược lại, trong điều kiện nền kinh tế có quá ít người làm công và quá ít hoạt động sản xuất, nhưng nhờ có nguồn tài nguyên hoặc lượng thu nhập đã tích lũy được trong quá khứ dồi dào nên tiêu dùng lớn, cần phải đề cao vai trò của thuế gián thu để đảm bảo cân đối ngân sách.
- Tác động đến đối tượng điều chỉnh
Thông thường để điều tiết một loại đối tượng nào đó, nhà nước cũng có thể đưa đối tượng đó trở thành đối tượng nộp thuế hoặc không là đối tượng nộp thuế của một loại thuế nhất định. Việc quy định là đối tượng nộp thuế hoặc không là đối tượng nộp thuế được áp dụng rộng rãi trong nền kinh tế thị trường chưa hội nhập đầy đủ. Phương pháp này trở nên vô hiệu, khi đất nước hội nhập đầy đủ. Cho dù, nguyên tắc đối xử quốc gia chỉ mới áp dụng cho đối tượng là hàng hoá, dịch vụ chưa áp dụng cho pháp nhân và thể nhân, nhưng trên thực tế, những hình thức phân biệt đối xử giữa các thể nhân và pháp nhân vẫn có thể bị khiếu kiện. Vì vậy, phương thức này không còn phù hợp trong giai đoạn đến.
 - Thay đổi thuế suất
Thuế suất hay định suất thuế là linh hồn của mỗi loại thuế. Thay đổi thuế suất tức là thay đổi mức thu thuế hay đại lượng thu thuế tính trên một đơn vị đối tượng tính thuế. Thông qua việc thay đổi đại lượng thuế trên một đối tượng tính thuế, Nhà nước tiến hành phân phối lại thu nhập được tạo ra giữa các chủ thể kinh tế, giữa các ngành, các vùng và các tầng lớp dân cư trong xã hội, làm thay đổi lợi ích kinh tế của họ.
Mục đích của Nhà nước điều tiết thuế đối với nền kinh tế quốc dân là tạo ra quỹ tài chính tập trung, tạo sự cân bằng mong muốn trong nền kinh tế và kích thích kinh tế tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trước hết phụ thuộc vào mức đầu tư, mà mức đầu tư được quyết định bởi đại lượng tiết kiệm và khối lượng tích luỹ đã đạt đến mức độ nhất định. Rõ ràng, biểu thuế cao hay thấp đã tác động đến hành vi tiết kiệm và tích luỹ, do đó ảnh hưởng đến quy mô và tốc độ đầu tư. Mối quan hệ giữa việc hình thành một nguồn tài chính tập trung dồi dào để mở rộng chi tiêu Chính Phủ với việc gia tăng tiết kiệm và tăng trưởng đầu tư trong khối dân cư bao giờ cũng là một mối quan hệ trái chiều, cần hiệu chỉnh hợp lý thông qua các mức thuế suất của các loại thuế.
Nếu Nhà nước sử dụng hệ thống chính sách thuế có các mức thuế suất quá cao sẽ cản trở quá trình hình thành những điều kiện cần thiết tạo mức tiết kiệm đủ để đảm bảo cho việc đầu tư trong các thành phần kinh tế. Nếu Nhà nước sử dụng hệ thống chính sách thuế có các mức thuế suất thấp sẽ làm tăng thu nhập của dân cư và doanh nghiệp, do đó làm tăng mức tiết kiệm và tích luỹ vốn, nhưng đồng thời sẽ xảy ra hiện tượng bội chi ngân sách, ảnh hưởng đến ổn định xã hội.
Thay đổi thuế suất được coi là một phương pháp quan trọng trong quá trình Nhà nước sử dụng công cụ thuế để điều tiết nền kinh tế. Thông qua việc quy định đánh thuế với thuế suất cao hay thấp vào các ngành nghề, mà Nhà nước tác động và làm thay đổi mối quan hệ giữa cung, cầu trên thị trường nhằm góp phần thực hiện điều tiết vĩ mô, đảm bảo sự giữa các ngành nghề trong nền kinh tế.
Tuy nhiên việc thay đổi thuế suất trong thực tiễn cũng gặp những khó khăn nhất định về kinh tế - kỹ thuật. Thứ nhất, trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước cần tạo ra những điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế. Một trong những điều kiện đó là ổn định biểu thuế. Sự thay đổi thường xuyên hệ thống thuế suất sẽ làm trở ngại đến việc lựa chọn và quyết định đầu tư của các chủ thể kinh tế trong xã hội. Thứ hai, hệ thống thuế suất thường được xây dựng trên cơ sở xem xét và tính toán có căn cứ khoa học và thực tiễn. Sự thay đổi thậm chí một thuế suất cũng có thể kéo theo sự thay đổi của cả hệ thống. Thứ ba, hệ thống thuế suất chính là thể hiện mức độ động viên một phần tổng sản phẩm xã hội vào Ngân sách Nhà nước, tức là phản ánh thực trạng nền kinh tế và mức độ lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước.
Chính vì những nguyên nhân trên, mà ngoài phương pháp thay đổi thuế suất, Nhà nước khi sử dụng công cụ thuế để tác động điều tiết vĩ mô nền kinh tế còn sử dụng nhiều phương pháp khác.
- Áp dụng các biện pháp ưu đãi thuế:
Ưu đãi thuế tức là hình thức cho người nộp thuế được hưởng những điều kiện thuận lợi khi nộp thuế. Thông qua thực hiện ưu đãi thuế, Nhà nước đã điều tiết nền kinh tế một cách linh hoạt, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của cục diện nền kinh tế để đạt được những mục tiêu đã đặt ra. Tác dụng kích thích của các hình thức ưu đãi thuế được xem như một hình thức Nhà nước cấp phát vốn trực tiếp cho các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư. Tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý, Nhà nước có thể tăng hoặc giảm quy mô và mức độ của các ưu đãi thuế để kích thích tăng tích luỹ và tích tụ vốn trong các doanh nghiệp và dân cư.
Các hình thức ưu đãi thuế rất đa dạng: quy định mức thu nhập tối thiểu không phải nộp thuế; cho phép loại trừ một số khoản chi phí trong thu nhập chịu thuế; miễn hoặc giảm một phần hay toàn bộ số thuế phải nộp; cho hoãn nộp thuế; cấp tín dụng thuế để tái đầu tư. Hiện nay, trên thế giới hình thức cấp tín dụng thuế để tái đầu tư được sử dụng rất rộng rãi.
Tuỳ theo phạm vi sử dụng, có thể phân chia các loại ưu đãi thuế thành hai nhóm khác nhau: ưu đãi thuế mang tính chất ngành, vùng lãnh thổ  và ưu đãi thuế mang tính chất cá biệt. Việc cấp ưu đãi thuế mang tính chất cá biệt được sử dụng nhằm giải quyết nhiệm vụ điều chỉnh trong phạm vi hẹp, gắn liền với lợi ích của từng chủ thể kinh doanh. Tuy có những ưu điểm nhất định, nhưng ưu đãi thuế mang tính cá biệt cũng tạo ra sự không công bằng trong sản xuất kinh doanh giữa các chủ thể kinh tế, gây hậu quả tâm lý xấu đối với người nộp thuế và tạo ra những tiền đề trốn thuế, do đó làm mất tính trung lập của thuế.
Trong giai đoạn hội nhập, các ưu đãi thuế có thể bị xem là một khoản trợ cấp. Tuỳ theo các lĩnh vực được ưu đãi, đối tượng được ưu đãi và cách ưu đãi mà các ưu đãi thuế này có thể bị xem là các khoản trợ cấp bị cấm hoặc các khoản trợ cấp đặc thù sẽ bị áp dụng biện pháp đối kháng theo Hiệp định trợ cấp và các biện pháp đối kháng (SCM). Tuy nhiên, nếu áp dụng biện pháp thông qua hình thức dùng thuế suất áp dụng chung có thể sẽ tránh được những phiền phức trong thực thi các cam kết.
Ngoài các phương pháp điều chỉnh của thuế kể trên, trong thực tiễn Nhà nước còn sử dụng một số phương pháp điều chỉnh thuế khác như sử dụng biểu thuế phân biệt, thay đổi hình thức nộp thuế. Mỗi phương pháp điều chỉnh của thuế đều có những ưu, nhược điểm nhất định và giữ vị trí khác nhau trong quá trình điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Việc áp dụng phương pháp này hay phương pháp khác hoặc tất cả các phương pháp là phụ thuộc vào trạng thái kinh tế và mục tiêu của Nhà nước trong từng thời kỳ phát triển kinh tế của đất nước.
3.1.3. Mối quan hệ giữa hai chức năng
Giữa hai chức năng trên của thuế có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế là nguyên nhân ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của chức năng điểu tiết. Nhưng chức năng điều tiết của thuế cũng có tác động ngược lại đến chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập. Nguồn tài chính mà Nhà nước tập trung được dưới dạng thuế là tiền đề của sự can thiệp của Nhà nước trên diện rộng và theo chiều sâu tới qúa trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngược lại, việc điều tiết, sắp xếp sản xuất của Nhà nước nhằm vào việc thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế lại tạo điều kiện để tăng thu nhập của các tầng lớp nhân dân và đây chính là cơ sở quan trọng để mở rộng phạm vi tác động của chức năng phân phối và phân phối lại.
Sự thống nhất nội tại của các chức năng hoàn toàn không loại trừ các mâu thuẩn nội tại trong mỗi chức năng và giữa hai chức năng. Sự tăng cường chức năng phân phối và phân phối lại làm cho nguồn thu của Nhà nước tăng lên. Ðiều đó có nghĩa là mở rộng khả năng của Nhà nước trong việc thực hiện các chương trình kinh tế xã hội. Mặc khác, việc tăng cường chức năng phân phối và phân phối lại một cách qúa mức làm tăng gánh nặng thuế và hậu qủa là làm giảm động lực phát triển kinh tế, trong nhiều trường hợp làm hạn chế vai trò của chức năng điều tiết. Ðó là tính hai mặt của thuế, nó có khả năng làm ảnh hưởng đến nền kinh tế một cách tích cực, nhưng cũng có thể ảnh hưởng một cách tiêu cực. Tính hai mặt của sự tác động đó cần phải được xem xét nghiêm túc kỹ lưỡng trong tiến trình hoạch định, xây dựng, ban hành các chính sách pháp luật về thuế của Nhà nước trong từng giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội nhất định.
3.2.Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường.
Các nhà kinh tế học thường đề cập vai trò của thuế đối với ngân sách Nhà nước và đời sống xã hội. Bởi vì trên thực tế, thông qua hoạt động thu thuế, Nhà nước tập trung được một bộ phận của cải của xã hội từ đó hình thành nên qũy ngân sách Nhà nước và thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
Về phương diện Luật học, thuế là một thực thể do Nhà nước đặt ra thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ quy định nội dung các loại thuế mà còn xác lập các quyền, nghĩa vụ của các chủ thể, các biện pháp đảm bảo thực hiện thu, nộp thuế. Pháp luật thuế là sự thể chế hoá các chính sách kinh tế - xã hội cuả Nhà nước. Chính vì vậy pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế - xã hội của thuế và có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.
Vai trò của thuế là sự biểu hiện cụ thể các chức năng của thuế trong những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự thay đổi phương thức can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế đóng vai trò hết sức quan trọng đối với qúa trình phát triển kinh tế - xã hội. Vai trò của thuế được thể hiện trên các khía cạnh sau đây:
3.2.1. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
Với chức năng phân phối lại thu nhập quốc dân, thuế bằng nhiều cách hình thành nên nguồn tài chính tập trung lớn nhất phục vụ cho chi tiêu công cộng, đó là ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước được tập hợp từ nhiều nguồn thu khác nhau, nhằm đảm bảo yêu cầu chi tiêu chung cho nhu cầu công cộng. Trong tất cả các nguồn, thông thường số thu về thuế chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số thu ngân sách nhà nước. Đây là nguồn thu ổn định nhất được kế hoạch hoá tốt trên cơ sở dự báo kế hoạch và tiềm năng phát triển kinh tế của đất nước trong một năm. Hầu như mọi khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước đều dựa vào sự đóng thuế của người dân. Vì vậy, xã hội có trách nhiệm phải tôn trọng người nộp thuế, những người thông qua hành vi của mình đóng góp tài chính cho nhà nước một cách trực tiếp và gián tiếp.
3.2.2. Thuế là công cụ điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội
Một trong những khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường là có sự chênh lệch lớn về mức sống, về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Kinh tế thị trường càng phát triển thì khoảng cách giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư ngày càng có xu hướng gia tăng. Sự phát triển mọi mặt của một đất nước là thành quả của sự nỗ lực của cả cộng đồng, mỗi thành viên trong xã hội đều có những đóng góp nhất định. Nếu không chia sẻ thành quả phát triển kinh tế cho mọi thành viên sẽ thiếu công bằng và tạo nên sự đối lập về quyền lợi và của cải giữa các tầng lớp dân cư và gây ra bất ổn xã hội. Chính vì vây, Nhà nước cần phải can thiệp vào quá trình phân phối thu nhập, của cải của xã hội. Thuế là công cụ quan trọng mà Nhà nước sử dụng để tác động trực tiếp vào quá trình này.
Việc điều hoà thu nhập giữa các tầng lớp dân cư được thực hiện một phần thông qua thuế gián thu mà đặc biệt là hình thức thuế tiêu thụ đặc biệt. Loại thuế này có đối tượng chịu thuế chủ yếu là các hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng cao cấp, đắt tiền. Các hàng hoá, dịch vụ này thông thường chỉ có những người có thu nhập cao trong xã hội mới có thể sử dụng và hoặc sử dụng nhiều, qua đó điều tiết bớt một phần thu nhập của họ.
Các sắc thuế trực thu, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân với việc sử dụng thuế suất luỹ tiến là loại thuế có tác dụng rất lớn trong vấn đề điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
3.2.3. Thuế là công cụ để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh doanh
Vai trò này được xuất hiện trong quá trình tổ chức thực hiện các luật thuế trong thực tế. Để đảm bảo thu được thuế và thực hiện đúng các quy định của các luật thuế đã ban hành, cơ quan thuế và các cơ quan liên quan phải bằng mọi biện pháp nắm vững số lượng, quy mô các cơ sở sản xuất, kinh doanh, ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, mặt hàng họ được phép kinh doanh cũng như các định mức chi tiêu đặc thù và các phương thức hạch toán riêng có. Từ công tác thu thuế mà cơ quan thuế sẽ phát hiện ra những khó khăn mà họ gặp phải để giúp đỡ họ tìm mọi biện pháp tháo gỡ. Đồng thời, cũng qua công tác thu thuế, cơ quan thuế cập nhật được nhiều kiến thức quản lý kinh tế để phục vụ tốt hơn cho việc kiểm tra, kiểm soát sau này. Như vậy, qua công tác quản lý thu thuế mà có thể kết hợp kiểm tra, kiểm soát toàn diện các mặt hoạt động của các cơ sở kinh tế, đảm bảo thực hiện tốt quản lý Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
3.2.4. Thuế góp phần thức đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển
Thuế trong cơ chế thị trường không chỉ đóng vai trò là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, mà còn là một công cụ làm đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Theo quan điểm công bằng, bất kỳ một tổ chức, cá nhân khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế của mình với đất nước, họ được quyền thụ hưởng và cung ứng những lợi ích công cộng nhất định và được tạo thuận lợi nhất cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, phụ thuộc vào chủ trương kinh tế đất nước, mà nhà nước có thể dùng thuế để tác động, tạo thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh ở một số ngành, vùng để khuyến khích sản xuất, kinh doanh phát triển nhằm tạo ra một cơ cấu hợp lý hơn.
IV. PHÂN LOẠI THUẾ
4.1. Khái niệm phân loại thuế.
Thời kỳ đầu khi Nhà nước ra đời sản xuất hàng hoá chưa phát triển, thuế thường được thu bằng hiện vật. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội, kinh tế hàng hoá - tiền tệ ra đời và phát triển, thuế được thu bằng tiền là chủ yếu. Thuế thu bằng tiền, các quan hệ về thuế dưới hình thức giá trị được hình thành và ngày càng phát triển có tính hệ thống, các loại thuế khác nhau lần lượt ra đời làm cho thuế ngày càng đa dạng, phong phú linh hoạt hơn.
Tuỳ theo điều kiện hoàn cảnh của mỗi nước mà hệ thống chính sách thuế bao gồm nhiều hay ít các loại thuế khác nhau. Để định hướng xây dựng và quản lý hệ thống chính sách thuế, người ta tiến hành sắp xếp các loại thuế có cùng tính chất thành những nhóm khác nhau, gọi là phân loại thuế.
Có thể đưa ra khái niệm chung về phân loại thuế như sau:
 Phân loại thuế là sự sắp xếp các sắc thuế trong một hệ thống chính sách thuế thành những nhóm khác nhau theo các tiêu thức nhất định.
Để phân loại thuế người ta dựa vào nhiều tiêu thức khác nhau. Từ thực tế sử dụng tiêu thức phân loại thuế ở nước ta và thế giới, chúng ta thấy  các tiêu thức để phân loại thuế rất đa dạng và tuỳ thuộc vào mục tiêu quản lý của mỗi quốc gia mà người ta có thể đưa ra các tiêu thức khác nhau như: phân loại thuế dựa theo phương thức đánh thuế, phân loại thuế dựa theo cơ sở tính thuế, phân loại thuế dựa theo phạm vi điều chỉnh của sắc thuế, phân loại thuế theo tên gọi của sắc thuế, theo tính chất thuế suất....
4.2. Các cách phân loại thuế
4.2.1. Dựa theo phương thức đánh thuế.
Các loại thuế, suy cho cùng đều đánh vào thu nhập của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào phương thức đánh thuế là đánh một cách trực tiếp hay gián tiếp vào thu nhập mà người ta chia hệ thống thuế thành hai loại: thuế trực thu và thuế gián thu.
-  Thuế trực thu.
 Là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế. Thuế trực thu có đặc điểm là đối tượng nộp thuế theo luật quy định đồng nhất với người phải chịu thuế. Ở đây, theo quy định của luật, thuế thu trực tiếp vào thu nhập của người nộp thuế. Như vậy, thuế trực thu làm cho khả năng và cơ hội chuyển dịch gánh nặng thuế cho người khác khó khăn hơn. Về nguyên tắc, loại thuế này mang tính chất thuế luỹ tiến, vì nó tính đến khả năng của người nộp thuế, người có thu nhập cao hơn phải nộp thuế nhiều hơn, còn người có thu nhập thấp thì nộp thuế ít hơn. Loại thuế trực thu thường bao gồm các sắc thuế đánh trên thu nhập của tổ chức và cá nhân. Ở nước ta, các sắc thuế trực thu bao gồm: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà, đất...
Ưu điểm của thuế trực thu là động viên trực tiếp vào thu nhập của từng tổ chức, cá nhân có thu nhập, hơn thế nữa, thuế trực thu còn cho phép xem xét đến các yếu tố tương đối độc lập đến thu nhập của người nộp thuế, như hoàn cảnh bản thân, hoàn cảnh gia đình... Do đó, thuế trực thu có tác dụng rất lớn trong việc điều hoà thu nhập, giảm bớt sự chênh lệch đáng kể về mức sống giữa các tầng lớp dân cư, do đó đã bảo đảm được tính công bằng trong xã hội.
Nhược điểm của thuế trực thu là dễ gây ra phản ứng từ phía người nộp thuế khi Nhà nước điều chỉnh tăng thuế. Hơn nữa việc theo dõi, tính toán số thuế phải nộp và thủ tục thu, nộp thuế hết sức phức tạp. Số thu động viên vào Ngân sách thường chậm  và chi phí quản lý thu thuế  khá tốn kém.
- Thuế gián thu.
 Là loại thuế không trực tiếp đánh vào thu nhập hay tài sản của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hoá, dịch vụ. Người tiêu dùng những hàng hoá, dịch vụ đó là người chịu loại thuế này. Thuế gián thu có đặc điểm là người nộp thuế theo luật và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Thuế gián thu là một bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ. Người nộp thuế là người sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, còn người chịu thuế là người tiêu dùng các hàng hoá đó, họ mua hàng hoá với giá cả trong đó có cả thuế. Loại thuế này có sự chuyển dịch gánh nặng thuế trong những trường hợp nhất định. Thuế gián thu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua cơ chế giá cả thị trường. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng đó của thuế gián thu không những chịu chi phối bởi mối quan hệ cung cầu trên thị trường, mà còn phụ thuộc vào bản chất của thị trường, trong đó có sự tác động của thuế, tức là thị trường đó là thị trường cạnh tranh hay độc quyền. Về nguyên tắc, thuế gián thu mang tính chất luỹ thoái vì nó không tính đến khả năng thu nhập của người chịu thuế, người có thu nhập cao hay thấp đều phải chịu thuế như nhau nếu cùng mua một loại hàng hoá, dịch vụ. Tuy nhiên, tỷ lệ thu nhập nộp thuế của những người có thu nhập thấp sẽ cao hơn tỷ lệ nộp thuế của người có thu nhập cao nếu so với tổng thu nhập trong kỳ, bởi lẽ tốc độ tăng tiêu dùng bao giờ cũng thấp hơn tốc độ tăng thu nhập. Loại thuế này thưòng có cơ sở đánh thuế là các khoản thu nhập dùng để tiêu dùng. Ở nước ta, các sắc thuế gián thu bao gồm: thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu...
Ưu điểm của thuế gián thu là đối tượng chịu thuế rất rộng. Thuế gián thu được che đậy qua giá bán hàng hoá, dịch vụ nên người chịu thuế ít có cảm giác mình bị Nhà nước đánh thuế. Thuế gián thu đem lại nguồn thu thường xuyên và ổn định cho Ngân sách Nha nước. Đối tượng quản lý thu thuế cũng tập trung hơn, nghiệp vụ tính và thu thuế thuế đơn giản, nên chi phí  quản lý thuế cũng thấp hơn so với thuế trực thu.
Nhưng loại thuế này cũng có nhược điểm là có tính chất luỹ thoái nên không đảm bảo tính công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế. Nếu tính tỷ lệ động viên thuế gián thu so với thu nhập thì người giàu có tỷ lệ động viên thuế chịu thuế thấp hơn so với người nghèo.
Dù cho đây là hình thức tiếp cận cổ xưa nhất, nhưng vẫn là hình thức phân loại được sử dụng phổ biến nhất ở các nước. Nhiều nước đưa vào trong chính sách thuế của mình các tiêu thức phân loại thuế trực thu và gián thu khác nhau. Điển hình có thể tham khảo cách phân loại của Pháp trong Nghị định ban hành ngày 22-12-1879, đó là: tiêu chí về tác động chuyển thuế và tiêu chí thiết lập sổ bộ thuế.
Về tác động chuyển thuế, là xem xét thuế do người nộp thuế chịu hay thuế được chuyển giao cho người khác chịu. Nếu thuế do người nộp thuế chịu thì đó là thuế trực thu, còn nếu thuế được chuyển từ người nộp thuế sang cho người khác chịu thì đó là thuế gián thu.
Về sổ bộ thuế, sổ bộ thuế xuất hiện ở Pháp vào thế kỹ XIII-XIV. Tất cả các khoản thuế được thu thông qua sổ bộ thuế được xếp vào nhóm thuế trực thu. Trái lại, khi thuế gắn với hoạt động sản xuất, tiêu dùng, thông thường không ổn định theo thời gian, do đó không thể lập được sổ bộ thuế để theo dõi, sẽ được xếp vào loại thuế gián thu.
4.2.2. Phân theo cơ sở tính thuế.
Nếu căn cứ vào cơ sở tính thuế để phân loại thuế thì có thể chia thành ba loại như sau:
- Thuế thu nhập.
Bao gồm các loại thuế có cơ sở đánh thuế là thu nhập kiếm được. Thu nhập kiếm được là toàn bộ số tiền và lợi ích vật chất mà một tổ chức, cá nhân nhận được trong kỳ tính thuế, kể cả các khoản chi tiêu đã bỏ ra để có được thu nhập. Thu nhập kiếm được từ nhiều nguồn: từ lao động dưới dạng tiền lương, tiền công; từ hoạt động sản xuất, kinh doanh dưới dạng thu nhập, lợi tức cổ phần; và từ các hoạt động đầu tư tài chính khác... do đó, thuế thu nhập cũng có nhiều dạng: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập công ty, thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài, thuế lợi tức cổ phần...
-  Thuế tiêu dùng.
Là loại thuế đánh vào hàng hoá, dịch vụ khi diễn ra việc mua bán. Điều đáng chú ý đầu tiên là thuế tiêu dùng không khác thuế thu nhập nhiều như người ta tưởng. Thật vậy, thuế tiêu dùng đánh vào phần thu nhập kiếm được hoặc sử dụng phần tiết kiệm để mua sắm hàng hoá hoặc dịch vụ tiêu dùng trong hiện tại. Thứ hai, Thuế tiêu dùng đôi khi còn thể hiện giống như hình thức thuế vốn hay tài sản. Đó là trường hợp mua tài sản dùng để đầu tư như nhà cửa, lợi thế thương mại, trái phiếu. Các phần mua tài sản tiêu dùng là thể hiện thuế tiêu dùng rõ nét. Trong thực tế loại thuế tiêu dùng được thể hiện dưới nhiều dạng như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng...
-  Thuế tài sản.
Thuế tài sản có thể được đánh trong trường hợp chuyển giao, cho không tài sản (ví dụ như cho, tặng hoặc thừa kế), hoặc dưới hình thức bán (ví dụ như nhượng bán bất động sản hoặc động sản), hoặc trong trường hợp có sự hiện hữu của tài sản (như trường hợp đánh thuế vào các khối tài sản lớn).
Người ta nhận thấy rằng, thuế tài sản có thể là một dạng của thuế tiêu dùng và cũng có thể dưới hình thức gián tiếp của thuế thu nhập. Thuế tài sản giống thuế tiêu dùng khi đánh vào hoạt động mua bất động sản và động sản. Nó thể hiện như một hình thức gián tiếp của thuế thu nhập khi mua các bất động sản hoặc động sản bằng việc sử dụng các khoản thu nhập có từ trước và bản thân các thu nhập đó cũng đã bị đánh thu. Thuộc loại thuế tài sản là các sắc thuế như thuế nhà đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp...
4.2.3. Phân theo phạm vi điều chỉnh
Căn cứ vào phạm vi điều chỉnh của thuế người ta có thể chia các sắc thuế thành hai loại:
-  Thuế tổng hợp.
 Là loại thuế đánh vào tất cả các thành phần của cơ sở đánh thuế mà không có trường hợp ngoại lệ, không có miễn, giảm thuế. Thuế tổng hợp đánh trên toàn bộ tài sản, các nghiệp vụ phát sinh hoặc tổng thu nhập trong một lần duy nhất. Ví dụ như thuế thu nhập cá nhân của Pháp là thuế đánh trên toàn bộ của hộ gia đình
-  Thuế có lựa chọn hay thuế có phân tích.
Là loại thuế chỉ đánh dựa trên cơ sở các yếu tố của một tài sản hoặc một nghiệp vụ độc lập, hoặc một loại thu nhập. Thuế thu nhập cá nhân Việt Nam có thể coi là một sắc thuế điển hình của loại này.
4.2.4.  Phân theo đặc trưng của biểu thuế
- Thuế đánh theo tỷ lệ %
Là loại thuế đánh theo hình thức áp dụng một tỷ lệ hoặc phần trăm, hoặc lần trên các cơ sở tính thuế. Đây là hình thức áp dụng phổ biến trong các loại thuế hiện nay. Trong thuế tỷ lệ có thể phân ra thành 3 loại cụ thể như sau:
* Thuế lũy tiến: áp dụng tỷ lệ tăng dần theo các mức tăng của cơ sở tính thuế. Cơ sở tính thuế càng tăng thì mức thuế suất càng cao. Trong thuế lũy tiến có hai hình thức: thuế lũy tiến từng phần và thuế lũy tiến toàn phần. Với thuế lũy tiến từng phần, thuế suất cao hơn chỉ được áp dụng cho phần cơ sở tính thuế tăng thêm. Với thuế lũy tiến toàn phần, phần thuế suất cao hơn được áp dụng cho tất cả cơ sở tính thuế, kể cả cơ sở ở mức thấp trước đó.
* Thuế lũy thoái: áp dụng tỷ lệ giảm dần theo các mức tăng của cơ sở tính thuế. Cơ sở tính thuế càng tăng thì mức thuế suất càng giảm. Tương tự với thuế lũy tiến, thuế lũy thoái cũng có hai hình thức: lũy thoái toàn phần và lũy thoái từng phần. Thông thường các nước áp dụng thuế lũy thoái để khuyến khích các đối tượng nộp thuế nhiều. Hà lan trước đây đã dùng thuế lũy thoái đánh vào thu nhập công ty để thu hút các khoản đầu tư lớn, thúc đẩy quá trình tích lũy vốn.
* Thuế tỷ lệ cố định: là loại thuế áp dụng một thuế suất cố định trên cơ sở tính thuế mà không phụ thuộc vào quy mô của cơ sở tính thuế đó. Thuế tỷ lệ cố định thường được áp dụng để các cơ sở kinh doanh dễ hạch toán và tính toán trong quá trình kinh doanh. Thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam là một ví dụ về thuế tỷ lệ cố định.
- Thuế đánh trên mức tuyệt đối.
Là loại thuế được xác định bằng cách ấn định một số thu bằng tiền trên một đơn vị vật chất như trọng lượng, khối lượng, diện tích... của đối tượng chịu thuế. Trong thực tế cách tính thuế này ít phổ biến. Trong hệ thống chính sách thuế Việt Nam hiện nay có thể lấy ví dụ là thuế tiêu thụ đặc biệt đánh trên xe ô tô cũ vừa được Bộ Tài chính ban hành.
4.2.5. Phân theo thẩm quyền  ban hành chính sách thuế.
Tùy theo thẩm quyền thu thuế được quy định với từng loại thuế, người ta phân thuế thành hai loại: Thuế trung ương và thuế địa phương.
- Thuế trung ương.
Có nơi còn gọi là thuế Liên bang, do nhà nước hoặc chính quyền liên bang chịu trách nhiệm thu trên phạm vi cả nước theo một chính sách thuế thống nhất. Các đối tượng nộp thuế dù kinh doanh hay cư trú bất kỳ nơi nào trong lãnh thổ quốc gia cũng đều chịu thuế theo một chính sách như nhau. Thuế trung ương chủ yếu là các loại thuế đánh vào các hoạt động kinh doanh có phạm vi trên toàn quốc, hoặc có khả năng di chuyển trên toàn quốc, nhằm tránh việc phân khúc giữa các địa phương và dễ gây ra hiện tượng đánh thuế trùng hoặc bỏ sót thuế. Thuế trung ương thường được thu tập trung cho ngân sách Trung ương hoặc ngân sách liên bang (với các nhà nước liên bang). Tuy nhiên, cũng có quốc gia phân một tỷ lệ nhất định trong thuế suất dành cho các địa phương sau khi thu xong.
- Thuế địa phương.
Có nơi gọi là thuế Bang, đánh vào các hoạt động kinh doanh hoặc các hành vi chỉ ảnh hưởng trong phạm vi quản lý của từng địa phương hoặc một Bang. Thuế địa phương thường bao gồm các loại thuế đánh trên bất động sản, tài nguyên...theo một khung thuế thống nhất do nhà nước hoặc Liên bang soạn thảo. Các địa phương căn cứ vào khung thuế suất để quyết định một mức thuế suất cụ thể, thu trong phạm vi địa phương mình trong một thời kỳ nhất định. Thuế địa phương có thể được nâng lên hoặc hạ xuống trong phạm vi khung cho phép phụ thuộc vào điều kiện kinh doanh, thu nhậpvà đời sống của dân cư tại địa phương.
      Các loại thuế trên được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để vừa phát huy tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa hổ trợ, bổ sung cho nhau nhằm thực hiện một cách tổng hợp các mục tiêu và vai trò của hệ thống pháp luật thuế.




Chương 2
HỆ THỐNG THUẾ
I. KHÁI NIỆM HỆ THỐNG THUẾ
1.1. Các nhận thức khác nhau về hệ thống thuế
Hệ thống thuế là một khái niệm đang có nhiều quan niệm khác nhau. Với những giác độ tiếp cận khác nhau, người ta hình dung hệ thống thuế cũng rất khác nhau. Quan niệm hệ thống thuế cũng được thay đổi và phát triển theo tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Có thể nêu ra một số quan niệm khác nhau về hệ thống thuế qua một số giai đoạn phát triển kinh tế xã hội như sau.
 Trong nền kinh tế, thu nhập được tạo ra và luân chuyển theo một dòng khép kín: người lao động nhận được tiền công, dùng tiền công này để mua hàng hoá, dịch vụ của các công ty, đến lượt các công ty lại dùng số tiền thu được để trả lãi cho vốn vay để đầu tư, tiền thuê đất, tiền nhân công... và sau đó các đối tượng có thu nhập này lại dùng thu nhập để chi tiêu dưới nhiều dạng để mua hàng hoá, dịch vụ. Chính sự biến đổi đa dạng này đã tạo ra những cơ sở đánh thuế khác nhau, do đó tạo khả năng cho chính phủ đánh thuế trên các cơ sở thuế khác nhau, trên sự luân chuyển của dòng thu nhập khép kín. Hay nói cách khác là xuất hiện các loại thuế khác nhau.
Từ nhận thức trên, có quan điểm cho rằng, hệ thống thuế là tổng hợp các loại  thuế khác nhau với cơ chế hoạt động, đối tượng điều chỉnh, phương pháp đánh thuế, mức độ điều tiết và phương pháp thu nộp khác nhau. Các loại thuế có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau nhằm thực hiện mục tiêu điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước.
Hệ thống thuế theo quan điểm này chính là tập hợp các loại thuế mà nhà nước ban hành. Nói khác có thể hiểu đây là hệ thống chính sách thuế.
Số lượng các loại thuế trong hệ thống thuế nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản sau:
Một là, sự vận động của dòng thu nhập trong nền kinh tế đơn giản hay phức tạp.
Hai là, khả năng kiểm soát và điều chỉnh sự vận động của dòng thu nhập trong nền kinh tế của chính phủ.
Tuỳ thuộc khả năng và mục đích của Chính phủ trong việc điều chỉnh sự vận động của dòng thu nhập ở những giai đoạn khác nhau mà hình thành các hệ thống thuế khác nhau.  
Theo quan điểm khác của trường phái thực hành gồm các nhà quản lý thuế ở các nước, hệ thống thuế là tập hợp của các thể chế về thuế và các biện pháp quản lý thuế. Quan điểm này cho rằng, các thể chế về thuế là cái làm nên linh hồn của hệ thống thuế, nó thể hiện ý chí của nhà nước về công tác thu thuế trong từng thời kỳ. Các biện pháp quản lý thuế là phương pháp thực hiện các thể chế đó trong thực tế. Hệ thống thuế theo quan điểm này chính là việc thực thi chính sách thuế trong nền kinh tế của bộ máy thu thuế. Theo quan điểm này việc thực thi chính sách thuế hoàn toàn do cơ quan thu chịu trách nhiệm, vì vậy không tránh khỏi tình trạng thực thi không hoàn toàn đúng với pháp luật, giải thích chính sách thuế thiên lệch và chủ quan trong công tác quản lý.
Mở rộng quan điểm này, trong giai đoạn hiện nay, một số người cho rằng hệ thống thuế là một hệ thống gồm các thể chế về thuế, các biện pháp quản lý và bộ máy của cơ quan thu thuế. Việc mở rộng quan điểm này đã tạo cơ hội cho cơ quan thu củng cố bộ máy để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ thu.
Các quan điểm này, về mặt nào đó, thể hiện rõ tiến trình phát triển của công tác thu thuế qua các thời kỳ và qua từng giai đoạn. Tuy nhiên, các quan điểm vẫn nặng phần mô tả thực tế, chưa được khái quát thành một khái niệm chung và cũng chưa thể hiện hết những nguyên tắc cơ bản của một hệ thống thuế.
Nhà kinh tế học Adam Smith (1723 - 1790). Trong tác phẩm "Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân giầu có của nhân loại" Ông đã vạch ra bốn nguyên tắc cơ bản xây dựng hệ thống thuế hợp lý:
Một là, thuế phải huy động phù hợp với khả năng và sức lực của dân cư;
Hai là, mức thuế và thời hạn thanh toán phải được xác định chính xác;
Ba là, thời gian thu thuế cần được quy định thuận lợi đối với người nộp thuế;
Bốn là, các chi phí để tổ chức thu nộp thuế cần phải thấp nhất.
1.2. Tính chất hệ thống thuế tốt
1.2.1. Tính hiệu quả kinh tế
Trong việc xem xét tính hiệu quả kinh tế của hệ thống thuế, người ta xem xét hệ thống thuế mang lại hiệu quả hay hậu quả cho nền kinh tế khi tồn tại các yếu tố và các mối quan hệ hiện hành.
Mối quan tâm đầu tiên trong nội dung này là liệu chính sách thuế của nhà nước trong giai đoạn hiện nay tác động tích cực hay tiêu cực đến nền kinh tế. Trên phương diện kinh tế, chính sách thuế của Nhà nước bao giờ cũng ảnh hưởng đến việc phân bổ nguồn lực của xã hội và chịu sự chi phối của hai tác nhân có xu hướng vận động không đồng nhất là: Nhà nước và các lực lượng thị trường. Sự phân bổ nguồn lực dưới tác động của các lực lượng thị trường thường dựa trên yêu cầu của các quy luật kinh tế thị trường, còn sự phân bổ nguồn lực dưới tác động của Nhà nước thường dựa trên yêu cầu của xã hội và yêu cầu của quản lý, điều chỉnh theo chức năng của Nhà nước. Nói chung sự phân bổ các nguồn lực dưới tác động của các lực lượng thị trường thường đạt hiệu quả hơn. Tuy nhiên, do động cơ chủ yếu là lợi nhuận, nên xét ở tầm vĩ mô, việc phân bổ nguồn lực dưới tác động của các lực lượng thị trường, trong nhiều trường hợp không đem lại hiệu quả chung cho nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, cần phải có sự kết hợp với hệ thống phân bổ nguồn lực của Nhà nước trong chính sách thuế. Nhiều trường hợp, có thể trong ngắn hạn, một chính sách thuế mang lại hiệu quả nhưng về lâu dài chính sách thuế đó sẽ làm tổn hại đến nhịp độ phát triển kinh tế của đất nước. Bởi lẽ đó, nên khi xem xét hiệu quả đối với nền kinh tế của hệ thống thuế, người ta thường xem xét trên các nội dung tác động chính của các chính sách thuế đến nền kinh tế trên các mặt sau:
- Chính sách thuế có làm cho người dân, người nộp thuế thay đổi hành vi của mình hay không và liệu việc thay đổi hành vi đó có gây ảnh hưởng tiêu cực đến nhịp độ phát triển kinh tế đất nước hay không.
- Chính sách thuế có làm thay đổi tình trạng tài chính của người dân hay doanh nghiệp hay không và những thay đổi tài chính này theo hướng tích cực hoặc tiêu cực cho nền kinh tế.
- Chính sách thuế tác động ngắn hạn với nền kinh tế trước khi công bố như thế nào và những tác động ngắn hạn này có gây ra hậu quả không.
- Chính sách thuế tác động dài hạn đến sự cân bằng tổng thể của nền kinh tế như thế nào và các thay đổi cân bằng này có tạo đà phát triển cho nền kinh tế hay kìm hãm sự phát triển.
Mối quan tâm kế tiếp của việc xác định hiệu quả của nền kinh tế khi xác lập hệ thống thuế là liệu khi thừa nhận một yếu tố mới trong hệ thống thì các yếu tố mới này tác động đến các yếu tố khác tích cực hay tiêu cực. Đặc biệt, trong giai đoạn kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, việc thừa nhận các yếu tố khác ảnh hưởng thế nào đến hiệu quả của nền kinh tế. Một nền kinh tế đóng cửa, có thể chỉ với hệ thống nội luật thuế đã có những bước phát triển ổn định. Nếu tham gia hội nhập, buộc phải thừa nhận các giá trị của hệ thống Hiệp định và cam kết quốc tế mà Nhà nước đó đã ký kết. Các Hiệp định và Cam kết quốc tế liệu có làm giảm hiệu quả của hệ thống nội luật hay không. Các yếu tố khác như tổ chức bộ máy hành thu cũng sẽ có những thay đổi nhất định. Hiệu quả của những thay đổi mang tính hệ thống này cũng không đoán định trước được, bởi lẽ còn phụ thuộc vào nỗ lực của từng Chính Phủ. Vì thế trong hội nhập kinh tế có những hệ thống thuế phát huy tích cực tính chủ động hội nhập, mang lại số thu cao hơn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững hơn. Nhưng cũng có những hệ thống thuế bị trì trệ và gây đảo lộn nền kinh tế.      
1.2.2. Tính hiệu quả hành chính của hệ thống thuế
Thể hiện tính hiệu quả hành chính của hệ thống thuế là số chi phí xã hội dùng để thu được một đồng tiền thuế là thấp nhất. Trong thực tế, để thu thuế bao giờ cũng phát sinh chi phí, đó là các khoản chi phí trực tiếp quản lý của cơ quan thuế và những chi phí gián tiếp do người nộp thuế gánh chịu. Tuy nhiên, để quản lý hệ thống thuế, ngoài các chi phí trực tiếp và gián tiếp phục vụ cho việc thu thuế còn phải tính đến các chi phí liên quan trong việc hình thành và phát triển hệ thống. Các khoản chi phí để ban hành một chính sách thuế và đưa chính sách thuế đến người dân hoặc người nộp thuế. Các chi phí kiện tụng phát sinh trong quá trình vận hành do hệ thống chính sách thuế quá phức tạp, hoặc Bộ máy tổ chức thu thuế thiếu năng lực cũng là một trong những nguyên nhân làm cho hiệu quả của hệ thống thuế giảm sút.
Các khoản chi phí xã hội nêu trên tăng hay giảm phụ thuộc vào tính phức tạp hay đơn giản của hệ thống thuế; tính hợp lý của hệ thống chính sách thuế; hiệu quả công tác của bộ máy hành thu; sự hỗ trợ đắc lực và hiệu quả của các định chế thuế; và sự am hiểu và ý thức tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế. Điều hoà được các mối quan hệ giữa các yếu tố trong hệ thống một cách hợp lý và vừa đủ sẽ mang lại hiệu quả hành chính cao nhất. Tuy nhiên, đây là một vấn đề mang nặng tính lý thuyết.
 Nhiều quan niệm cho rằng để giảm bớt chi phí hành chính đòi hỏi hệ thống chính sách thuế phải đơn giản, dễ hiểu. Tuy nhiên, quan niệm này cũng gặp phải sự phản đối bởi các chi phí giải thích, hoàn thuế, tranh chấp, kiện tụng gia tăng. Thực chất đây chỉ là chuyển một phần chi phí từ khâu ban hành chính sách sang khâu thực hiện chính sách. Các chi phí xã hội vẫn không giảm bớt, nhiều lúc còn cao hơn.
1.2.3. Tính linh hoạt
Với mọi hệ thống, trong một môi trường thay đổi, hệ thống cũng thay đổi để thích ứng. Hệ thống thuế cũng có những diễn biến thay đổi nhất định khi môi trường kinh tế, chính trị, xã hội thay đổi. Trong việc thay đổi để thích ứng của hệ thống thuế có hai loại diễn biến thay đổi khác nhau: những thay đổi tự động trong hệ thống và những thay đổi mang tính chính trị.
Những thay đổi mang tính tự động được thiết kế cho một hệ thống, để triệt tiêu, củng cố hoặc bù trừ cho nhau giữa các yếu tố nhằm vẫn giữ vững cho hệ thống trong trạng thái ổn định. Khi hệ thống chính sách còn khiếm khuyết, thì việc củng cố bộ máy hành thu để chống thất thu hoặc khi vai trò của các định chế hỗ trợ thuế khác ra đời thì vai trò của bộ máy thuế cũng giảm bớt.... Ngay trong hệ thống chính sách thuế hoặc một yếu tố khác của hệ thống thuế cũng đều có cơ chế ổn định tự động để giữ cho các yếu tố phát triển cân bằng và cả hệ thống thuế ổn định. Đơn cử trong thuế thu nhập cá nhân, với biểu thuế lũy tiến, chế độ ổn định tự động phát huy tác dụng cao về kinh tế. Khi thu nhập giảm xuống do suy thoái, thuế suất trung bình sẽ giảm, các cá nhân chịu thuế với thuế suất thấp hơn vì thu nhập của họ thấp hơn. Khi thu nhập tăng do kinh tế phục hồi, thuế suất trung bình cũng sẽ tăng và cá nhân sẽ chịu mức thuế suất cao. Tính ổn định tự động của thuế thu nhập đã góp phần làm giảm sự điều chỉnh của các Chính Phủ khi khủng hoảng kinh tế xảy ra.
Ngoài cơ chế ổn định tự động, hệ thống thuế còn đòi hỏi phải có sự can thiệp trực tiếp từ phía Nhà nước để hệ thống thuế mang lại hiệu quả cao. Với một hệ thống thuế phức tạp, có nhiều yếu tố và mối quan hệ giữa các yếu tố được quy định chặt chẽ, thì sự điều chỉnh của nhà nước luôn gặp những trở ngại nhất định. Sự điều chỉnh chính trị của Nhà nước với hệ thống thuế, luôn bị tranh luận gay gắt, bởi lẽ không nhà kinh tế nào có thể phân tích được hết các tác động kinh tế khi thay đổi hệ thống thuế. Người ta không thể tính chắc là đưa thêm thuế môi trường vào thì ảnh hưởng đến cả hệ thống như thế nào, nền kinh tế sẽ phát triển hơn với một môi trường trong sạch hơn hay là một nền kinh tế phát triển với môi trường càng ô nhiễm. Người ta cũng không đoán chắc việc giảm thuế của những người có mức thu nhập khác nhau với cùng một khoản tiền tương tự, hoặc với tỷ lệ phần trăm như nhau, có công bằng hơn không.... Tuy những thay đổi chính trị diễn ra rất khó khăn, nhưng đây chính là những thay đổi thật sự cần thiết để thể hiện quan điểm của Chính Phủ với một lĩnh vực, đối tượng nhất định trong một thời kỳ nhất định.
Một hệ thống thuế tốt phải đảm bảo cơ chế linh hoạt ở cả hai mặt để các quy luật thị trường chi phối trong một môi trường thông thường và cũng để cho Nhà nước có thể can thiệp khi cần thiết mà không gây xáo trộn cả hệ thống. Việc tuân thủ tính linh hoạt của hệ thống thuế cần chú ý đến tốc độ điều chỉnh và độ trễ của các điều chỉnh.
1.2.4.  Tính minh bạch
Một hệ thống thuế chính xác thể hiện sự rõ ràng và minh bạch. Tức là, hệ thống thuế trước hết phải chỉ rõ ai chịu thuế, mức thuế phải nộp và thời hạn nộp thuế. Việc minh bạch phải tính đến từ công khai các nội dung cam kết quốc tế về thuế cho tất cả các đối tượng nộp thuế và công dân được biết để họ có thể tính toán và thực hiện nghĩa vụ của mình. Việc minh bạch phải xuất phát từ việc ban hành và công bố cho công chúng các chính sách về thuế có ảnh hưởng đến đời sống và hoạt động kinh doanh của họ. Việc minh bạch còn đòi hỏi khả năng tiếp cận các dự thảo và góp ý các dự thảo về chính sách thuế của nhà nước trước khi ban hành. Phải minh bạch cả thẩm quyền và trách nhiệm của cơ quan hành thu các cấp, để nhân dân có cơ sở kiểm tra, đánh giá. Phải minh bạch cơ chế tư vấn và thẩm quyền hỗ trợ của các định chế về thuế, nhằm tạo ổn định cho công tác thu thuế. Một hệ thống thuế rõ ràng và minh bạch sẽ tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư tính toán được hiệu quả kinh doanh và nghĩa vụ nộp thuế. Đây là yếu tố quan trọng để các nhà đầu tư trong và ngoài nước yên tâm bỏ tiền đầu tư vào các dự án phát triển sản xuất, kinh doanh. Ngược lại hệ thống thuế không rõ ràng và minh bạch sẽ gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc xác định hiệu quả kinh doanh và nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, do đó làm cản trở việc thu hút vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế. Thực chất đây chính là trách nhiệm chính trị của các Chính Phủ trong việc bạch hoá các chính sách thuế của mình, để tìm được sự tuân thủ tự nguyện của đối tượng nộp thuế và sự hài lòng của công chúng trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình.
1.2.5.  Tính công bằng
  Do thuộc lĩnh vực phân phối, vì vậy yêu cầu tiên quyết của hệ thống thuế là phải đảm bảo công bằng. Tính công bằng là một đòi hỏi khách quan trong việc phân chia gánh nặng thuế cho các tầng lớp dân cư trong xã hội. Có công bằng thì việc nộp thuế mới trở thành niềm tự hào và không tác động tiêu cực đến các nỗ lực kinh doanh của công chúng. Tuy nhiên, khó có thể xác định theo một chuẩn mực cái gì là công bằng và cái gì là không công bằng. Có nhiều quan điểm khác nhau về sự công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế. Loại trừ những quan điểm công bằng mang tính cào bằng, ở đây xét hai quan điểm công bằng khác nhau đang được nhiều người ủng hộ, đó là: công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc.
- Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều ngang, nếu các cá nhân có điều kiện về mọi mặt đều như nhau thì được đối xử ngang bằng nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Nguyên tắc này khó áp dụng diện rộng trong thực tiễn, vì không thể có được hai cá thể có điều kiện về mọi mặt như nhau, dù là anh em sinh đôi. Mặt khác, cũng khó xác định việc đối xử như nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế là như thế nào. Việc như nhau này tính theo thuế suất áp dụng, hay số thuế thực tế họ nộp, hay là tỷ lệ phần trăm trên tổng thu nhập mà họ kiếm được trong một năm ? Tuy nhiên, nếu giới hạn trong phạm vi kinh tế, đồng thời áp dụng phương pháp trừu tượng hoá trong nghiên cứu, chúng ta có thể xem xét sự công bằng ngang trong một mức độ tương đối. Ví dụ: hai hộ kinh doanh cùng ngành hàng, có quy mô kinh doanh giống nhau, sẽ phải chịu cùng mức thuế Môn bài. Trong trường hợp này, nếu chi tiết thêm là vị trí cửa hàng, trình độ bán hàng của hai hộ khác nhau nên doanh thu cũng sẽ khác.... và dù hai mức môn bài như nhau nhưng chưa chắc đã công bằng vì thu nhập thực tế của hai hộ là khác nhau. Nếu đặt tất cả các tiêu thức này lên, để cùng so sánh sẽ không giải quyết được các áp dụng thực tế của công bằng ngang. Vì vậy, để thực hiện công bằng ngang cần phải xác định giới hạn của những tiêu thức so sánh đầu vào và định dạng tiêu chuẩn của yêu cầu đầu ra trong một mục tiêu tương đối.
- Hệ thống thuế được coi là công bằng theo chiều dọc, nếu người có khả năng nộp thuế nhiều hơn thì phải nộp thuế cao hơn những người khác có khả năng nộp thuế ít hơn. Trong thực tế, để áp dụng nguyên tắc này cần xác định rõ hai vấn đề: tiêu thức xác định khả năng nộp thuế của từng người và mức độ nộp thuế cao hơn là bao nhiêu.
Vấn đề tiêu thức xác định khả năng nộp thuế cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Hiện nay người ta dùng tiêu thức thu nhập hoặc tiêu dùng để đánh giá khả năng nộp thuế và tình trạng kinh tế của mỗi người. Cũng giống như trong trường hợp công bằng ngang, nếu mở rộng các tiêu thức so sánh thì sẽ khó lý giải cho một trường hợp công bằng dọc nào. Trong thực tế, có thể nêu lên một vận dụng công bằng dọc là, hai hộ kinh doanh có cùng số thuế phải nộp hàng tháng. Nhưng nếu một hộ bị hoả hoạn, số thuế trong tháng sẽ được xem xét giảm theo quan điểm công bằng dọc và hộ bị hoả hoạn sẽ được nộp thuế ít hơn hộ không bị hoả hoạn. Tuy nhiên, trong trường hợp này cũng có nhiều ý kiến, chưa chắc rằng hộ bị hoả hoạn đã không có khả năng nộp thuế cao hơn, vì hộ này đã được cộng đồng và người thân giúp đỡ trên số thiệt hại, hoặc đã được bảo hiểm bồi thường. Vì vậy, việc áp dụng tính chất công bằng trong lý thuyết thuế cũng chỉ mang tính tương đối trong một phạm vi nhất định nào đó. Việc cho rằng hệ thống thuế là công bằng hay không công bằng, phụ thuộc rất nhiều vào việc nhận định các vấn đề kinh tế, xã hội của các nhà nước và nền tảng đạo đức, truyền thống của mỗi dân tộc. Nhưng cho dù ở không gian và thời gian nào thì việc ứng dụng tính công bằng trong hệ thống thuế cũng chỉ mang tính tương đối. Các hiện tượng công bằng rồi sẽ trở nên bất công và xã hội sẽ lại thiết lập một sự công bằng mới ở mức độ nhận thức cao hơn, phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia.
II. HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH THUẾ
2.1. Khái niệm chính sách thuế
 Khi nói đến chính sách của một đất nước là nói về quan điểm, cách nhìn nhận chính thống của nhà nước đó về một lĩnh vực, một hoạt động trong một giai đoạn nhất định. Vì vậy, có thể khái quát khái niệm chính sách thuế như sau:
Hệ thống chính sách thuế là tổng hợp các quan điểm chính thống của Nhà nước về các loại thuế trong một giai đoạn nhất định để sử dụng chức năng của thuế nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược chung của đất nước.
Các quan điểm chính thống của nhà nước thuộc phạm trù ý chí, vì vậy chúng là vô hình. Để cụ thể hoá các quan điểm chính thống này, nhà nước thông qua hình thức các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể. Vì vậy, có thể nói khác, hệ thống chính sách thuế là tập hợp hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thuế được ban hành trong một giai đoạn nhất định để thực hiện đầy đủ các chức năng của thuế.
Trong mỗi quốc gia khác nhau, khái niệm văn bản quy phạm pháp luật cũng khác nhau. Vì vậy, khi nghiên cứu chính sách thuế của mỗi nước, cần phải xuất phát từ những quy định cụ thể của nước đó về văn bản quy phạm pháp luật.
2.2. Những yếu tố tác động đến chính sách thuế
Hầu như tất cả các quốc gia đều quy định nghĩa vụ nộp thuế của công dân trong Hiến pháp của mình. Điều 80 của Hiến Pháp 1992 Việt Nam quy định “Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật”. Vì vậy, thuế là nghĩa vụ bắt buộc của mọi công dân. Tuy nhiên việc quy định một chính sách thuế trong mỗi thời kỳ để mọi công dân tuân thủ là công việc của các nhà làm luật. Cũng như những chính sách kinh tế khác, chính sách thuế được ban hành dưới tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó 3 yếu tố quan trọng nhất là: chính trị, kinh tế và xã hội.
2.2.1. Yếu tố chính trị
 Thuế được đặt ra nhằm mục đích hình thành nguồn tài chính tập trung để sử dụng cho mục đích chi tiêu công cộng. Vì vậy, việc đặt ra các loại thuế, mức thuế suất để đạt đến một tỷ lệ huy động nhất định hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các nhà nước. Cũng với một mục tiêu tối thượng là phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, nhưng trong nhìn nhận và đánh giá của mình, nhà nước cho rằng nên hỗ trợ ngành này, địa phương này, hạn chế ngành kia, địa phương kia để có được một nhịp độ phát triển và một cơ cấu kinh tế tối ưu. Những nhận định và đường lối chính trị này được thể hiện thông qua các luật thuế. Các luật thuế phải thể hiện được các quan điểm chính trị của nhà nước trên từng lĩnh vực, trong từng thời kỳ để đảm bảo việc điều hành đất nước thông suốt.
Trong nền kinh tế hội nhập, yếu tố chính trị càng bị đa dạng hoá. Khi đã tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, các quan điểm chính trị của nhà nước không chỉ đơn thuần xuất phát từ trong bộ máy, mà còn bị áp đặt bởi các yếu tố chính trị quốc tế. Các cam kết quốc tế và các Hiệp định về thuế đã áp đặt các quan điểm chính trị của các quốc gia khác trong khối liên kết, hoặc bên ký kết lên hệ thống chính sách thuế, buộc quốc gia tham gia hội nhập phải điều chỉnh chính sách thuế của mình theo hướng ưu tiên cho những cam kết về thuế chung. Với các quốc gia hội nhập, yếu tố chính trị quốc tế tác động mạnh và mang tính ưu tiên hơn các yếu tố chính trị nội địa. Các chính sách thuế quan và thuế nội địa của các nước phải sửa đổi lại cho phù hợp với các cam kết quốc tế (như các cam kết gia nhập AFTA, WTO, APEC..) hoặc việc áp đặt các loại thuế trả đũa, thuế chống trợ cấp, thuế chống phá giá lên trên các quan hệ kinh tế bình thường. Vì vậy, trong giai đoạn hội nhập, thuế không chỉ thể hiện ý chí của nhà nước mà còn thể hiện một phần ý chí của cộng đồng quốc tế thông qua các cam kết và Hiệp định.
2.2.2. Yếu tố kinh tế
Điều này, thể hiện ở chỗ thuế được đánh trên phần lớn các hoạt động kinh tế, các hoạt động tạo ra GDP hàng năm cho đất nước. Do vậy, việc ban hành các chính sách thuế phải gắn liền với các điều kiện kinh tế cụ thể của  từng hoạt động. Do đó, kinh tế là cơ sở của thuế. Trên cơ sở kinh tế, các chính sách thuế được xây dựng mới mang tính khả thi cao. Việc ban hành chính sách thuế không gắn kết với điều kiện kinh tế của từng hoạt động sẽ làm cho các hoạt động kinh tế hỗn loạn và làm chậm đà phát triển. Một chính sách thuế tốt là vừa huy động được nguồn tài chính dồi dào vào ngân sách nhà nước nhưng cũng vừa tạo điều kiện để cho các hoạt động kinh tế phát triển.
Những yếu tố kinh tế thường tác động đến chính sách thuế là mức độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, cơ cấu kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, quan hệ cung - cầu trên thị trường, sự biến động của Ngân sách, tỷ giá hối đoái... Điều này đã được chứng minh qua các phân tích về bản chất và chức năng của thuế ở phần trên..
Nghiên cứu sự tác động của các yếu tố kinh tế đối với chính sách thuế để thấy rõ hơn về bản chất kinh tế của thuế và quán triệt quan điểm việc xây dựng chính sách thuế phải căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nền kinh tế và dựa trên các chính sách phát triển kinh tế từng thời kỳ của mỗi quốc gia.
2.2.3. Yếu tố xã hội  
Chính sách thuế do Nhà nước ban hành nhưng những người thực hiện chính sách thuế là các tầng lớp dân cư trong xã hội. Do đó các yếu tố xã hội như tâm lý, tập quán của các tầng lớp dân cư, truyền thống văn hoá, xã hội của các dân tộc... đều tác động và ảnh hưởng nhất định đến nội dung của chính sách thuế cũng như quá trình tổ chức thực hiện chúng. Một chính sách thuế ban hành có cơ sở kinh tế vững chắc nhưng gây ra sự xáo trộn xã hội lớn cũng sẽ không thể tồn tại được lâu dài.
Nghiên cứu sự tác động của các yếu tố xã hội đến chính sách thuế và tác động của chính sách thuế đến các lĩnh vực xã hội giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất xã hội của thuế, qua đó thấy rõ về yêu cầu xây dựng chính sách thuế phải đảm bảo sự chú ý toàn diện đến tất cả các yếu tố liên quan.
2.3. Vai trò của hệ thống chính sách thuế
Trong hệ thống thuế các thời kỳ, hệ thống chính sách thuế luôn tồn tại và trở thành một yếu tố chủ yếu chi phối toàn hệ thống thuế. Chính vì vậy, trên một giác độ nào đó nhiều người hiểu đồng nghĩa hệ thống thuế với hệ thống chính sách thuế. Việc hiểu như vậy là không đúng về mặt lý luận, tuy nhiên cũng cho thấy vai trò quan trọng của hệ thống chính sách thuế trong hệ thống thuế. Có thể thấy vai trò của hệ thống chính sách thuế thông qua việc tác động đến các yếu tố khác trong hệ thống như sau:
2.3.1. Phản ảnh nội dung các cam kết quốc tế về thuế
Cam kết quốc tế và các Hiệp định về thuế chỉ phát sinh trong hệ thống thuế của một nước khi nước đó tham gia hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Đây là yếu tố mới phát sinh trong hệ thống, tuy nhiên chúng có tác động lớn đến hệ thống chính sách thuế của nước đó.
Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, các nước phải chấp nhận những điều khoản về thuế mà các tổ chức thương mại, tài chính chi phối để áp dụng chung. Bên cạnh đó để tránh xung đột pháp lý trong việc áp dụng các luật thuế đối với các công dân của các nước khác trên lãnh thổ nước mình, hoặc công dân của nước mình trên lãnh thổ nước khác, các nước tiến hành ký các Hiệp định song phương về thuế. Việc ký kết các hiệp định và cam kết về thuế buộc các nước phải điều chỉnh hệ thống chính sách thuế nội địa cho tương thích. Đây chính là nguồn luật mới của hệ thống pháp luật thuế nước sở tại. Ngoại trừ một số trường hợp không thể đưa vào nội luật, còn lại nội dung các cam kết phải được thể hiện trong hệ thống chính sách thuế để cho mọi đối tượng nộp thuế đều có thể nắm bắt và thực thi.
Dù cho các cam kết về thuế trong các Hiệp định cũng như Cam kết quốc tế không là ý muốn của nhà nước, nhưng khi đã chấp thuận những cam kết này, thì nhà nước đó đương nhiên xem đó là ý chí của mình. Vì vậy, về mặt nào đó, có thể xem hệ thống các cam kết quốc tế về thuế cũng là một bộ phận bổ trợ của hệ thống chính sách thuế trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
2.3.2. Hoàn thiện bộ máy tổ chức thu thuế
Bộ máy tổ chức thu thuế là yếu tố thực hiện chính sách thuế. Hệ thống chính sách thuế tác động trực tiếp đến mô hình và quy mô của bộ máy tổ chức thu thuế. Hệ thống chính sách thuế phức tạp sẽ dẫn đến hệ thống có nhiều hơn một bộ máy tổ chức thu thuế. Việc hình thành bộ máy thu thuế địa phương và trung ương hoặc hình thành bộ máy thu thuế gián thu, thuế trực thu..., tùy thuộc vào quy định của hệ thống chính sách thuế. Tuy nhiên, bộ máy tổ chức thuế, trong quá trình hành thu của mình cũng có những kiến nghị tác động ngược trở lại hệ thống chính sách thuế, để hệ thống hoá các phát sinh thực tiễn, nhằm hoàn thiện chính sách thuế ngày càng tốt hơn.
2.3.3. Phát triển, mở rộng và nâng cao trình độ đối tượng nộp thuế
Đối tượng nộp thuế tồn tại khách quan cùng với sự ra đời của hệ thống thuế, tuy nhiên do mô hình quản lý hành chính nhà nước về thuế ở mỗi nước, mỗi giai đoạn có khác nhau, nên vai trò của các đối tượng nộp thuế trong hệ thống thuế được nhìn nhận khác nhau. Trong một nền hành chính mệnh lệnh, một chiều, đối tượng nộp thuế chỉ là người buộc phải nộp thuế cho nhà nước một cách thụ động, không tác động tích cực trở lại hệ thống thuế. Yếu tố này chỉ tác động lại hệ thống thuế bằng các phong trào chống thuế và tránh thuế. Trong nền hành chính dịch vụ, sự tác động trở lại của đối tượng nộp thuế trong hệ thống thuế mang tính tích cực hơn. Để các đối tượng nộp thuế tuân thủ tốt nghĩa vụ thuế, họ cần phải được nắm vững các chính sách thuế. Thông qua việc nghiên cứu chính sách thuế, các đối tượng nộp thuế có thể hoạch định phương hướng kinh doanh tốt hơn để mang lại nhiều thuận lợi cho hoạt động kinh doanh. Đồng thời trong quá trình thực thi, đối tượng nộp thuế cũng phản hồi những thông tin bất cập của hệ thống chính sách, để hoàn thiện sửa đổi. Thực tiễn cho thấy phần lớn những điều chỉnh chính sách thuế đều xuất phát từ sự phản hồi thông tin từ người nộp thuế thông qua quá trình thực hiện.
2.3.4. Tạo điều kiện cho các định chế hỗ trợ phát triển
Nền kinh tế dịch vụ cao đã làm cho vai trò của các định chế hỗ trợ thuế phát huy tác dụng trong hệ thống thuế. Các định chế này tham gia vào quá trình triển khai thực hiện chính sách thuế, làm cánh tay nối dài trong việc đưa chính sách thuế đến đối tượng nộp thuế thường xuyên và nhất quán. Thông qua các định chế này, chính sách thuế bằng nhiều kênh và nhiều cách trong nhiều thời điểm đến được với đối tượng nộp thuế một cách liên tục và kịp thời. Qua các định chế trung gian này, các vướng mắc về chính sách thuế của đối tượng nộp thuế cũng được hệ thống và phản hồi kịp thời để bổ khuyết cho các hạn chế của chính sách thuế. Trong các quốc gia áp dụng hệ thống thông luật (common law) các án lệ trong việc xử các vụ án có liên quan về thuế cũng là nguồn luật để bổ sung vào các văn bản quy phạm pháp luật - linh hồn của hệ thống chính sách thuế.
2.3.5. Quy định các mối quan hệ giữa các yếu tố (Luật ứng xử, hay Luật quản lý thuế )
Trong tương quan hệ thống, các yếu tố có mối quan hệ tác động qua lại khắng khít với nhau. Để hệ thống hoạt động ổn định, các nhà nước thường quy định quy tắc ứng xử giữa các mối quan hệ hệ thống. Trong hệ thống thuế, việc quy định các mối quan hệ này thường được cụ thể hoá trong Luật ứng xử hay luật quản lý thuế. Tùy theo nhận định về hệ thống thuế mà các nội dung trong Luật ứng xử hay luật quản lý thuế được thiết kế. Tuy nhiên, nội dung cốt lõi không thể thiếu được là quy định mối quan hệ giữa bộ máy thu thuế với đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện việc thu, nộp thuế vào ngân sách nhà nước theo chính sách thuế đang áp dụng.
III. HỆ THỐNG VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT THUẾ TẠI VIỆT NAM
3.1. Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật thuế
Theo Điều 1 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã được Quốc Hội  nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ 10 thông qua vào ngày 12 tháng 11 năm 1996. Văn bản quy phạm pháp luật thuế được quy định như sau:
Văn bản quy phạm pháp luật thuế là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự chung về thuế, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ kinh tế xã hội trên lĩnh vực thuế.
Qua khái niệm nêu trên, ta rút ra được một số điểm ần lưu ý:
Một là, Cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuế ở Việt Nam bao gồm: Quốc Hội ban hành các luật thuế và ra các nghị quyết chỉ đạo công tác thuế; Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh thuế và ra các nghị quyết về thuế; Chủ tịch nước ban hành Lệnh công bố Luật thuế  và quyết định có liên quan đến thuế; Chính phủ ban hành Nghị quyết, quyết định, chỉ thị chỉ đạo công tác thuế; Bộ trưởng Bộ Tài chính được quyền ra quyết định, chỉ thị, thông tư để hướng dẫn và chỉ đạo. Ở địa phương Hội đồng nhân dân ra nghị quyết; Uỷ ban nhân dân ra quyết định và chỉ thị chỉ đạo công tác thuế trong phạm vị cấp tỉnh, thành phố.
Hai là, Việc ban hành các văn bản quy về thuế phải theo trình tự quy định cụ thể cho từng loại văn bản quy phạm pháp luật tương ứng. Những văn bản không được ban hành theo trình tự quy định cũng không được xem là văn bản quy phạm pháp luật thuế.
Ba là, nội dung văn bản. Nội dung văn bản quy phạm pháp luật thuế phải bao hàm các quy tắc xử sự chung và áp dụng cho nhiều trường hợp để xử lý các tình huống có liên quan đến thuế. Những văn bản xử lý một trường hợp cụ thể không được xem là văn bản quy phạm pháp luật về thuế.
Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thuế được quy định ở một số nội dung sau :
Thứ nhất, hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất quy định nghĩa vụ nộp thuế của công dân.
Thứ nhì, văn bản quy phạm pháp luật thuế được ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất, thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật.
Thứ ba, văn bản quy phạm pháp luật thuế do các cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật thuế của cơ quan nhà nước cấp trên.
Thứ tư, văn bản quy phạm pháp luật thuế trái với Hiến pháp, trái với văn bản của cơ quan nhà nước thẩm quyền cấp trên, phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, đình chỉ việc thi hành.
3.2  Tham gia gúp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm  pháp luật thuế

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân có quyền tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuế.
- Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuế, căn cứ vào tính chất và nội dung của dự án, cơ quan, tổ chức hữu quan tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia góp ý kiến và tiếp thụ ý kiến đóng góp để xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuế.
Theo yêu cầu khi tham gia vào WTO, các văn bản quy phạm pháp luật thuế trước khi ban hành chính thức phải được công bố rộng rãi trên phương tiên thông tin đại chúng 60 ngày để thu thập ý kiến của các đối tượng liên quan trước khi thông qua chính thức.
Văn bản quy phạm pháp luật thuế có quy định hiệu lực về thời gian, không gian và đối tượng áp dụng. Văn bản quy phạm pháp luật thuế được thể hiện bằng tiếng Việt. Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải đơn giản, dễ hiểu. Đối với thuật ngữ chuyên môn cần xác định rõ nội dung, thì phải được định nghĩa trong văn bản.Văn bản quy phạm pháp luật thuế phải được đánh số thứ tự cùng với năm ban hành và ký hiệu cho từng loại văn bản.
3.3. Văn bản quy định chi tiết thi hành
- Luật thuế, pháp lệnh thuế và các văn bản quy phạm pháp luật thuế khác phải được quy định cụ thể để khi các văn bản đó có hiệu lực thì được thi hành ngay cùng một thời điểm. Trong trường hợp luật thuế, pháp lệnh thuế có điều, khoản cần phải được quy định chi tiết bằng văn bản khác, thì ngay tại điều, khoản đó, phải xác định rõ cơ quan nhà nước nào có thẩm quyền quy định chi tiết và thời hạn ban hành văn bản chi tiết rõ ràng.
- Văn bản quy định chi tiết thi hành các Luật và Pháp lệnh thuế phải được soạn thảo cùng với dự án luật, pháp lệnh để trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời ban hành khi luật, pháp lệnh có hiệu lực.
3.4. Hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật thuế.
Hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật về thuế là quá trình tập hợp các quy phạm pháp luật thuế còn hiệu lực trong các văn bản quy phạm pháp luật thuế rời rạc vào một văn bản quy phạm pháp luật mới. Cơ quan quản lý hành chính nhà nước trên lĩnh vực thuế trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm thường xuyên rà soát, định kỳ hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật; nếu phát hiện có quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển của đất nước, thì tự mình hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành.
Các cơ quan, tổ chức và công dân có quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật thuế bất hợp lý, gây thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của mình. Văn bản quy phạm pháp luật thuế chỉ được sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ bằng một văn bản quy phạm pháp luật thuế khác do chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó, hoặc bị đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp trên. Văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản khác phải xác định rõ tên văn bản, điều, khoản của văn bản bị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành.
Văn bản quy phạm pháp luật thuế khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành, thì vẫn còn nguyên hiệu lực và phải được nghiêm chỉnh thi hành.
3.5. Pháp điển hoá văn bản quy phạm pháp luật thuế
Pháp điển hoá văn bản quy phạm pháp luật thuế là quá trình thu thập các nội dung về thuế cần thiết, chưa được quy định trong các quy phạm pháp luật để nâng lên thành quy phạm pháp luật và đưa vào trong văn bản quy phạm pháp luật thuế tương ứng.
Văn bản quy phạm pháp luật thuế phải được đăng Công báo hoặc niêm yết , đưa tin công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Văn bản quy phạm pháp luật thuế của cơ quan quản lý hành chính thuế ở trung ương phải được đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời hạn chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành.
Văn bản quy phạm pháp luật thuế của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân phải được niêm yết công khai tại trụ sở của cơ quan ban hành và những địa điểm khác do Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân quyết định.
3.6. Phân loại văn bản quy phạm pháp luật thuế
* Theo hình thức văn bản:
- Luật thuế: do Quốc hội ban hành. Luật thuế quy định các nội dung cơ bản của một loại thuế, hoặc các vấn đề quan trọng mang tính nguyên tắc khác trong lĩnh vực thuế có liên quan đến nhiều đối tượng trong xã hội.
- Pháp lệnh thuế: do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành. Pháp lệnh thuế quy định về những vấn đề về thuế được Quốc hội quan tâm nhưng chưa thể ban hành thành luật được. Các nội dung về thuế được quy định trong pháp lệnh, sau một thời gian thực hiện sẽ được trình Quốc Hội  xem xét, quyết định ban hành thành luật.
- Nghị định thuế: do Chính phủ ban hành. Nghị định thuế quy định chi tiết thi hành luật thuế của Quốc hội, pháp lệnh thuế của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, khi được Quốc Hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định cụ thể trong Luật, Pháp lệnh. Nghị định thuế cũng quy định những vấn đề hết sức cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật thuế hoặc pháp lệnh thuế để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Việc ban hành nghị định thuế này phải được sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
- Thông tư thuế: do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành. Thông tư thuế được ban hành để hướng dẫn thực hiện những quy định được luật thuế của Quốc hội; pháp lệnh thuế của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết, nghị định của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ giao trách nhiệm giải thích, hướng dẫn thuộc lĩnh vực thuế.
- Thông tư liên tịch về thuế: do một bên là Bộ trưởng Bộ Tài chính và các bên còn lại do các bộ trưởng của những bộ có liên quan ban hành
- Nghị quyết thuế: do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc Chính Phủ ban hành. Nghị quyết thuế được ban hành để quyết định chính sách cụ thể về xây dựng và kiện toàn bộ máy hành chính thuế nhà nước từ trung ương đến cơ sở, hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố thực hiện các văn bản pháp quy về thuế của cơ quan nhà nước cấp trên; bảo đảm thực hiện pháp luật thuế trong các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong phạm vi cả nước.
- Quyết định thuế: do Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành. Quyết định thuế dùng để quyết định các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của hệ thống quản lý hành chính nhà nước thuế từ trung ương đến cơ sở để đảm bảo vận hành thống nhất.
- Chỉ thị thuế: do Thủ tướng Chính Phủ, hoặc Bộ trưởng Bộ tài chính, hoặc do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh thành phố ban hành. Chỉ thị thuế quy định các biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ; các bộ phận trong Bộ; các bộ phận thuộc Ủy ban nhân dân để đôn đốc và kiểm tra hoạt động của các bộ phận này trong việc thực hiện chủ trương về thuế đã ban hành.
* Theo từng loại thuế
Theo từng loại thuế có thể chia văn bản quy phạm pháp luật thuế thành nhiều loại như:
- Văn bản quy phạm pháp luật về thuế Xuất khẩu, thuế  Nhập khẩu
- Văn bản quy Phạm pháp luật về thuế Giá trị gia tăng
- Văn bản quy phạm pháp luật về thuế Tiêu thụ đặc biệt
 - Văn bản quy phạm pháp luật về thuế Thu nhập doanh nghiệp
- Văn bản quy phạm pháp luật về thuế Thu nhập cá nhân
- Văn bản quy phạm pháp luật về thuế Sử dụng đất nông nghiệp
- Văn bản quy phạm pháp luật về thuế Nhà đất
- Văn bản quy phạm pháp luật về thuế Tài nguyên
- Văn bản quy phạm pháp luật về quản lý thuế
.....
3.7. Một số nội dung thường cã trong v¨n b¶n ph¸p quy vÒ chÝnh s¸ch  thuÕ Việt Nam
Luật thuế do Quốc hội ban hành, quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ. Xem xét cấu tạo một Luật thuế là xem xét sự sắp xếp, bố trí các quy phạm pháp luật theo các nội dung điều chỉnh. Ở nước ta, các Pháp lệnh, Nghị quyết do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành chứa đựng các quy phạm pháp luật thuế, thực hiện chức năng điều chỉnh của Luật thuế nên cũng có cấu tạo tương tự Luật thuế. Thông thường, Luật thuế có cấu tạo gồm các bộ phận chủ yếu sau: tên gọi; những quy định chung; căn cứ tính thuế; đối tượng nộp thuế; chế độ kê khai, nộp thuế, thu thuế; chế độ miễn, giảm thuế; nghĩa vụ và trách nhiệm của đối tượng nộp thuế; chế độ xử lý vi phạm; khen thưởng và giải quyết khiếu nại về thuế. Tuy nhiên, ở những nước có luật ứng xử thuế hoặc luật quản lý thuế, một số quy phạm mang tính quản lý không được quy định trong luật thuế.
a. Tên luật thuế.
Tên Luật thuế thường được xác định trên cơ sở tên gọi loại thuế được quy định trong nội dung luật thuế. Tên gọi của một loại thuế được xác định theo đối tượng nộp thuế như thuế công ty; hoặc đối tượng tính thuế như thuế thu nhập, thuế nhà đất, thuế giá trị gia tăng; hoặc kết hợp cả đối tượng nộp thuế và đối tượng tính thuế như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân; hoặc nội dung và tính chất của các hoạt động làm phát sinh điều kiện pháp lý để áp dụng như thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế môi trường...
b. Đối tượng nộp thuế:
Trong một luật thuế bao giờ cũng quy định cụ thể chủ thể nào có nghĩa vụ phải nộp thuế. Theo thuật ngữ chuyên ngành về thuế, chủ thể chịu sự điều chỉnh của một loại thuế thường được gọi là đối tượng nộp thuế. Đối tượng nộp thuế thể hiện phạm vi áp dụng của một luật thuế cụ thể. Là đối tượng nộp thuế của một loại thuế nghĩa là người đó, tổ chức đó có nghĩa vụ phải kê khai loại thuế đó để xác định nghĩa vụ nộp thuế của mình, cho dù đối tượng đó sẽ được miễn toàn bộ hoặc cơ sở tính thuế bằng không. Không là đối tượng nộp thuế của một lọai thuế, người đó, tổ chức đó không có nghĩa vụ phải kê khai thuế. Do trong hệ thống chính sách thuế là tập hợp nhiều loại thuế khác nhau đánh trên các cơ sở thuế khác nhau, vì vậy việc một người là đối tượng nộp thuế của loại thuế này cũng có thể là đối tượng nộp thuế của loại thuế khác song cơ sở thuế không thể trùng nhau. Trường hợp này không thể gọi là “những đối tượng nộp thuế, trong cùng một thời gian phải kê khai và nộp nhiều loại thuế khác nhau.” Bởi lẽ, trong từng loại thuế, cá thể hoặc tổ chức đó là những đối tượng nộp thuế khác nhau. Trong thuật ngữ thường ngày nhiều khi sử dụng nhầm lẫn. Ví dụ. Ông A là ca sĩ phải kê khai nộp thuế thu nhập cá nhân cho mình. Nhưng vì lý do biểu diễn, nên ông B là người phụ trách chương trình phải mang tiền đến cơ quan thuế nộp cho ông A. Dù ông B là người trực tiếp đến kho bạc nộp thuế nhưng ông B không phải là đối tượng nộp thuế.
Đối tượng nộp thuế theo quy định của pháp luật về một loại thuế là thể nhân hoặc pháp nhân có trách nhiệm trả loại thuế đó cho Nhà nước. Người có trách nhiệm trả thuế theo pháp luật quy định không nhất thiết là người phải chịu thuế. Trong nhiều trường hợp người có trách nhiệm trả thuế cũng chính là người chịu thuế.
Đối tượng nộp thuế của một loại thuế, nếu không thực hiện kê khai, nộp loại thuế đó sẽ bị xử phạt cho các hành vi tương ứng. Không ai có quyền buộc một người, một tổ chức không thuộc đối tượng nộp thuế của một loại thuế phải kê khai về loại thuế mà họ không là đối tượng.
c. Đối tượng chịu thuế
Theo các luật thuế hiện hành của Việt Nam, đối tượng chịu thuế là đối tượng được đưa ra để tính thuế. Đối tượng chịu thuế thường được xác định là thu nhập, hàng hoá hay tài sản. Mỗi một sắc thuế có một đối tượng chịu thuế riêng, thông thường tên gọi của một sắc thuế bắt nguồn từ đối tượng chịu thuế của sắc thuế đó. Ví dụ: thuế thu nhập, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt.v.v.   Đối tượng chịu thuế thường được tính trên một đơn vị giá trị hoặc một đơn vị vật lý. Theo nghĩa này, các nước cho rằng đây là đối tượng tính thuế. Đối tượng chịu thuế theo quan điểm của nhiều nước là những người phải lấy từ thu nhập của mình ra để trả thuế cho nhà nước thông qua hành vi tiêu dùng hoặc hành vi tìm kiếm thu nhập. Đối tượng chịu thuế thường ngầm hiểu trong các loại thuế mà không đưa vào nội dung của luật, trong khi đối tượng tính thuế phải được đưa vào luật để từ đó xác định cơ sở thuế hay cơ sở tính thuế.
 d. Cơ sở tính thuế, hoặc cơ sở thuế hoặc căn bản tính thuế hoặc căn cứ tính thuế.
Luật thuế quy định thuế phải nộp vào Ngân sách Nhà nước được xác định trên các căn cứ nhất định. Những căn cứ dùng để xác định số thuế phải nộp của một loại thuế cho từng đối tượng nộp thuế được gọi là cơ sở thuế hoặc căn cứ tính thuế của loại thuế đó. Cơ sở thuế của một loại thuế thường gồm các yếu tố sau:
- Đối tượng tính thuế
 Đối tượng tính thuế là loại hàng hoá, dịch vụ hoặc một yếu tố khác có thể đo lường được như: độ ồn, độ ô nhiễm.... Mỗi loại thuế có một đối tượng tính thuế riêng, chẳng hạn như: Thuế tiêu thụ đặc biệt có đối tượng tính thuế hàng hoá, dịch vụ tính thuế tính thuế TTĐB, thuế giá trị gia tăng có đối tượng tính thuế là hàng hoá, dịch vụ tính thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập có đối tượng tính thuế là thu nhập thu được, thuế sử dụng đất nông nghiệp có đối tượng tính thuế là diện tích đất nông nghiệp.
- Giá tính thuế
Trong việc xác định cơ sở thuế, giá tính thuế cũng được quy định cụ thể. Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các khoản thuế đều được thu bằng tiền. Vì vậy, để xác định được số thuế phải nộp, hàng hoá, dịch vụ chịu thuế phải được tính thành tiền. Giá tính thuế được quy định để xác định giá trị tính thuế của hàng hoá, dịch vụ. Thông thường giá tính thuế được quy định là giá chưa có loại thuế đó của hàng hoá, dịch vụ. Tuy nhiên, tùy theo tính chất của từng loại thuế mà trong giá tính thuế của loại này có thuế của loại kia, hoặc giá tính thuế là giá bán ra hay giá mua vào, hoặc có kèm theo các khoản phụ thu được hưởng hay không.
e. Mức thuế phải nộp trên một đơn vị đối tượng tính thuế hoặc thuế suất.
Có thể nói, thuế suất hay định suất thuế là linh hồn của một loại thuế, vì nó thể hiện nhu cầu cần tập trung nguồn tài chính cho Ngân sách Nhà nước và biểu hiện chính sách điều chỉnh kinh tế xã hội của Nhà nước, đồng thời cũng là mối quan tâm hàng đầu của người nộp thuế. Vì vậy, việc xác định thuế suất hay định suất thuế trong một loại thuế phải quán triệt quan điểm vừa coi trọng lợi ích quốc gia, vừa chú ý đến lợi ích thích đáng của người nộp thuế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tiêu dùng và tích lũy trong việc sử dụng công cụ thuế.
Tuỳ theo quy định của từng loại thuế mà  người ta áp dụng các loại thuế suất khác nhau. Trong thực tế có nhiều loại thuế suất, nhưng nhìn chung có các loại sau:
- Thuế suất thống nhất: là loại thuế suất quy định mức nộp thuế như nhau cho tất cả đối tượng tính thuế. Loại thuế suất này thường gặp ở thuế thân, nhưng hiện nay loại thuế này ít được áp dụng.
- Thuế suất phân biệt: là loại thuế suất quy định các mức khác nhau cho từng đối tượng nộp thuế và đối tượng tính thuế tuỳ theo định hướng phát triển kinh tế của mỗi nước.
 - Thuế suất đơn vị (hay còn gọi là định suất) là một loại thuế suất được quy định theo đơn vị vật lý của đối tượng tính thuế. Loại thuế này không phụ thuộc vào giá trị của đối tượng chịu thuế.
- Thuế suất theo giá trị là loại thuế suất quy định tỷ lệ phần trăm huy động trên một đơn vị giá trị đối tượng tính thuế. Thuế suất theo giá trị các dạng cụ thể sau:
+ Thuế suất theo tỷ lệ là loại thuế suất áp dụng một tỷ lệ (%) cố định không thay đổi trong mọi trường hợp tăng giảm của cơ sở tính thuế.
+ Thuế suất luỹ tiến là loại thuế mà mức thuế tăng theo mức tăng của cơ sở tính thuế. Thuế suất luỹ tiến bao gồm thuế suất luỹ tiến toàn phần và thuế suất luỹ tiến từng phần.
Thuế suất luỹ tiến từng phần: áp dụng với mức thuế suất tăng dần theo từng phần tăng lên của cơ sở đánh thuế. Với các sắc thuế áp dụng loại thuế suất này trong biểu thuế suất, cơ sở tính thuế được chia thành nhiều bậc theo mức độ tăng dần. Ứng với mỗi phần tăng lên trong từng bậc thuế đó là một mức thuế suất. Số thuế mà đối tượng nộp thuế phải nộp bằng tổng số thuế tính theo từng bậc. Việc tính toán và kiểm tra loại thuế này nhìn chung khá phức tạp, nhưng nó đảm bảo số thuế phải nộp tăng từ từ, không bị đột biến cùng tốc độ tăng của cơ sở tính thuế. Do đó, đảm bảo được tính công bằng theo chiều dọc và có tác dụng lớn trong việc điều tiết thu nhập. Chính vì vậy, Thuế thu nhập cá nhân đang được áp dụng trên thế giới và ở nước ta là loại thuế áp dụng thuế suất luỹ tiến từng phần.
Thuế suất luỹ tiến toàn phần: Biểu thuế suất cũng chia làm nhiều bậc với mỗi mức tăng lên của thuế suất, nhưng toàn bộ cơ sở đánh thuế được áp dụng một mức thuế suất chung tương ứng. Thuế suất luỹ tiến toàn phần cho phép xác định số thuế phải nộp khá đơn giản và nhanh chóng. Tuy vậy, nó cũng có nhược điểm là gây ra sự thay đổi có tính chất đột biến về tổng số thuế phải nộp của đối tượng nộp thuế ở những mức thu nhập cận biên giữa hai bậc thuế. Mặc dù gía trị của cơ sở đánh thuế thay đổi không đáng kể, nhưng sự thay đổi về số thuế phải nộp rất đáng kể do phải áp dụng các mức thuế khác nhau trên toàn bộ cơ sở  đánh thuế. Chính vì vậy, áp dụng thuế suất luỹ tiến toàn phần dễ dẫn đến sự phản ứng từ phía các đối tượng nộp thuế và như vậy tất yếu làm giảm vai trò của thuế. Hiện nay, thuế suất luỹ tiến toàn phần rất ít được áp dụng trên thế giới.
+ Thuế suất luỹ thoái: là loại thuế suất có tính chất ngược lại với thuế suất luỹ tiến, tức là mức thuế suất giảm dần trong khi cơ sở đánh thuế lại tăng dần. Ở một số nước trên thế giới, để khuyến khích các công ty vừa và nhỏ phát triển thành những công ty có quy mô lớn hơn, người ta đã áp dụng thuế suất  luỹ thoái (ở Mỹ, theo luật thuế thu nhập công ty năm 1991). Nói chung, thuế suất luỹ thoái là loại thuế suất không được áp dụng phổ biến.
f. Miễn, giảm thuế:
Miễn giảm thuế là một yếu tố ngoại lệ được quy định trong luật thuế. Chế độ miễn, giảm thuế thường được viết thành một chương riêng trong các luật thuế. Một số loại thuế quy định cho phép người nộp thuế không phải thực hiện nghĩa vụ nộp toàn bộ số tiền thuế, mà không phải nộp cho Nhà nước, gọi là miễn thuế hoặc chỉ nộp một phần số tiền thuế đó, gọi là giảm thuế.
Thông thường, những lý do để người nộp thuế được Nhà nước cho phép miễn thuế, giảm thuế quy định trong các luật thuế là:
- Do nguyên nhân khách quan mà người nộp thuế gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc bị giảm sút thu nhập.
- Thực hiện một số chủ trương chính sách kinh tế của Nhà nước như: khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích đầu tư vào các ngành nghề trọng điểm, địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn...
Tuy nhiên, thực hiện việc miễn giảm thuế cũng có tính hai mặt, nó chứa đựng những yếu tố tích cực, tạo điều kiện thực hiện các chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước, nhưng cũng chứa đựng các yếu tố tiêu cực, có thể làm méo mó những ý tưởng ban đầu khi thiết lập các loại thuế, không phù hợp với  những tiêu chuẩn của một hệ thống thuế hiện đại.
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, việc giảm miễn thuế là phương tiện quan trọng để ưu đãi, khuyến khích phát triển sản xuất trong nước khi các rào cản thuế quan bị bãi bỏ. Tuy nhiên, việc miễn giảm thuế nếu không đúng thông lệ quốc tế, được các tổ chức kinh tế quốc tế chấp thuận, sẽ được xem là một khoản trợ cấp và sẽ bị áp dụng các biện pháp đối kháng hoặc trả đủa.
Ngoài những phần chính nêu trên, các luật thuế khi chưa tách rời thành lụât quản lý thuế hoặc luật ứng xử thuế riêng, thường có thêm các nội dung sau:
g. Chế độ kê khai, nộp thuế, thu thuế.
 Chế độ kê khai thuế quy định trong Luật thuế thể hiện các quyền và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế trong việc chấp hành sổ sách kế toán, hóa đơn chứng từ và cung cấp tài liệu, sổ sách kế toán, chứng từ hoá đơn liên quan đến việc tính và thu thuế. Tùy thuộc vào yêu cầu của việc tính thuế đối với từng loại thuế mà Luật thuế và các văn bản pháp luật thuế có liên quan quy định nội dung pháp lý về nghĩa vụ kê khai củ đối tượng nộp thuế.
Chế độ nộp thuế bao gồm các quy định về quyền, nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế thực hiện với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Hành vi hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng nộp thuế được thể hiện ở việc nộp đủ và đúng thời hạn số thuế phải nộp. Thời hạn nộp thuế quy định trong các Luật thuế và các văn bản pháp luật thuế được xác định phù hợp với nội dung, tính chất của từng loại thuế.
Chế độ thu thuế là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trong Luật thuế có các quy định về trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan nước Nhà nước trong việc thực hiện hoạt động thu thuế như cơ quan thuế, cơ quan hải quan, kho bạc Nhà nước. Ngoài ra, trong các Luật thuế còn quy định trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan hành chính Nhà nước các cấp, cơ quan Nhà nước có liên quan trong qúa trình thực hiện việc thu thuế hoặc trách nhiệm, quyền hạn của các tổ chức và cá nhân thực hiện ủy nhiệm việc thu thuế.
h. Chế độ xử lý vi phạm và khen thưởng.
Ðể đảm bảo cho pháp luật thuế được thực hiện một cách triệt để, tập trung đúng, đủ, kịp thời nguồn thu từ thuế vào ngân sách Nhà nước, các Luật thuế đều có quy định các biện pháp chế tài của Nhà nước đối với các thể nhân và pháp nhân vi phạm Luật thuế, khen thưởng đối với các thể nhân, pháp nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ thu thuế.
Các biện pháp chế tài được áp dụng để đảm bảo sự tuân thủ Luật thuế bao gồm các biện pháp cưỡng chế hành chính và cưỡng chế tư pháp.
Mỗi Luật thuế sẽ quy định cụ thể cấp có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính, giải quyết các khiếu nại, tố cáo trong qúa trình áp dụng Luật thuế.
Tuy nhiên, tất cả các khoản trên thường được đồng nhất hoá trong Luật quản lý thuế để tránh những phức tạp khi hệ thống chính sách thuế có nhiều loại thuế khác nhau. Vì vậy khi Luật Quản lý Thuế được ban hành, các nội dung như: chế độ kê khai, nộp thuế, thu thuế, chế độ xử lý vi phạm và khen thưởng được quy định thống nhất trong luật này, các Luật thuế khác không còn phần này nữa./.